Những nét cơ bản về tín ngưỡng thờ cúng tại nhà của người Việt

Bắt đầu từ khi xã hội Việt Nam chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, vai trò người đàn ông trở nên quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội và sinh hoạt gia đình. Vợ và các con họ phải tuyệt đối phục tùng tôn trọng cái quyền được xác lập ấy của mỗi gia đình phụ quyền. Những đứa con trai mang dòng họ cha, kế tiếp ý thức về uy quyền trong mỗi gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được xác lập theo dòng họ cha bắt đầu hình thành. Việc nuôi nấng chăm sóc con cái rất vất vả, dân gian ta có câu “ Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển”, đó không chỉ ở ý nghĩa thiêng liêng cha mẹ sinh thành, mà còn nói đến công dưỡng dục. Chính vì những lý do nói trên, mà người Việt, đối với cha mẹ một lòng tôn kính khi sống, thờ cúng và tưởng nhớ khi chết. Cứ như thế, đời này sang đời khác, cha mẹ đối với ông bà, con đối với cha mẹ, kế tiếp nhau thành tín ngưỡng thờ cúng cha mẹ, ông bà Tổ tiên.nhà tho ho toc

Bên cạnh đó là sự tiếp thu Nho giáo trong việc đề cao chữ hiếu nghĩa với tư tưởng cơ bản là rất mực tôn quân, đề cao chế độ phong kiến quan liêu tập quyền. Để đảm bảo cho chế độ truyền tử, ngôi vua chỉ truyền cho con trai trưởng, Nho giáo đề cao gia đình “ quyền huynh thế phụ”, người con trai cả kế nghiệp vua, thừa kế gia sản, thờ cúng Tổ tiên, đề cao hiếu nghĩa “Trung chi quân, hiếu chi phụ mẫu, dữ chi bản” có nghĩa là “ Trung với vua, hiếu với cha mẹ là cùng một gốc vậy”. Người Việt tiếp thu tư tưởng Nho giáo chủ yếu để xây dựng chế độ phong kiến, vào những giai đoạn hưng thịnh, tư tưởng Nho giáo đã có nhiều đóng góp tích cực đối với nhà nước phong kiến thể hiện ở các quy định để thể chế hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ngoài ra, một số nhà khoa học cho rằng tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên ở Việt Nam là tiếp nối tín ngưỡng Tô tem giáo. Tô tem giáo gắn liền với tổ chức thị tộc. Mỗi tổ chức thị tộc có những hình thức thờ cúng riêng, trong khuôn khổ các tập tục thờ cúng vật thiêng của Tổ tiên. Họ cho rằng người chết chỉ là chết ở trần thế, còn linh hồn vẫn tiếp tục “sống” ở nơi chín suối, ở thế giới bên kia, linh hồn người chết vẫn có “ nhu cầu sinh hoạt” như người sống. Vì thế, người ta chôn theo người chết những đồ tùy táng, người ta phân chia các đồ dùng sinh hoạt cá nhân cho người chết.

Ngày nay, mỗi khi cúng lễ cầu khấn người ta đốt đồ vàng mã, tiền âm phủ, các đồ bằng giấy như ti vi, ô tô, xe máy… cho người chết mang theo. Mối liên quan giữa người sống và người chết được tiếp tục duy trì, nhất là đối với ông bà cha mẹ qua đời, thì việc thờ cúng dần trở thành một tín ngưỡng, đó chính là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên tại nhà.

Việc thờ cúng Tổ tiên, ông bà cũng như cha mẹ và người thân trong nhà, trong họ được mọi người chú ý. Mọi người cũng xác định quan hệ họ tộc là mật thiết. Có Tổ tiên mới có ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ và cha mẹ sinh thành ra mình. Công sinh thành dưỡng dục lớn lao không kể xiết, mà dân gian đã đúc kết thành lời ru:

Công cha như núi Thái Sơn,

          Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

          Một lòng thờ mẹ kính cha

          Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Vì thế, khi cha mẹ qua đời con cháu phải lo tang ma chu đáo. Đây là một điều lễ nghĩa hợp theo lẽ trời, một phép tắc của con người. Thánh nhân đã dạy “ Việc lễ cốt lấy chữ hòa làm quý” và đạo làm con phải giữ được điều này, tránh xảy ra việc bất hòa. Xưa đã có nhiều người vì quá nặng chữ hiếu nên sau khi tang ma gia đình khánh kiệt. Nhiều quan lại có việc đại tang phải cáo quan về nhà phục tang ba năm, sau đó mới tiếp tục ra làm quan khiến sản nghiệp cũng như sự nghiệp bị giảm sút, thậm chí bị thất cơ lỡ vận. Ngày nay, trong việc tang ma, chế độ phục tang đã cải tiến cho hợp thời, tránh được những lễ phục phiền hà không cần thiết. Nhưng việc thờ cúng, lập bàn thờ Tổ tiên, ban thờ người mới mất để giữ lấy “đức nghĩa” của đạo làm người, đạo làm con vẫn được lưu giữ và bảo tồn.

Ở Việt Nam, một số người theo đạo Thiên Chúa không thiết lập ban thở Tổ tiên như bên lương, nhưng các ngày kỷ niệm họ đến trước ban thờ Chúa cầu nguyện cho Tổ tiên mình. Gần đây, giáo dân cũng có sự hòa nhập với lương dân, có nơi đã lập ban thờ Tổ tiên, thậm chí còn đi lễ chùa, lễ đền như bên lương.

Đây là điều chứng minh sự tôn trọng cội nguồn dân tộc, tín ngưỡng, đạo giáo nào cũng không thể làm mất đi bản chất, đạo lý của dân tộc. Có người quan niệm Tổ tiên về cõi vô hình, nhưng linh hồn không thể mất, vẫn có thể lui tới ban thờ chứng kiến việc làm ăn của con cháu, chứng giám tấm lòng thành của con cháu trong các ngày kỵ nhật, lễ tiết hàng năm. Người Việt cổ còn cho rằng “ trần sao âm vậy”. Lúc ở trần gian ưa thích gì thì khi về cõi âm cũng cần các thứ đó, nghĩa là cần quần áo, tiền để tiêu pha như khi sống. Phải chăng bởi quan niệm này mà thường nhật, trước ban thờ Gia tiên nếp sống trong gia đình bớt đi những ngôn ngữ thô tục, những việc làm không tốt động chạm tới vong hồn cha mẹ, ông bà Tổ tiên. Có nghĩa là phải sống có đạo lý, hòa hiếu để đẹp lòng người đã khuất, phải chăm chỉ làm mọi việc cho công thành danh toại để đẹp lòng, đẹp ý ông bà, cha mẹ và làm rạng rỡ Tổ tiên. Cũng có người cho rằng chết là hết, lập ban thờ để tưởng niệm, nhưng nghi thức cúng lễ vẫn đảm bảo theo phong tục, hòa nhập với làng xã là được. Tuy nhiên, lại có ít số người không lập ban thờ tại gia, cho việc khi chết thì theo về với Tổ tiên, chỉ cúng ở Từ đường dòng họ.

Ngày nay, trong xã hội hiện đại, mọi khuynh hướng đều khó có thể tranh cãi, song với bản chất dân tộc bởi đạo lý nên mọi gia chủ mỗi khi trong gia đình có công to việc lớn, mỗi khi sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt thành đạt thì đều sửa lễ cáo yết với Gia thần, Gia tiên. Hoặc cũng có gia chủ khi trong gia đình có điều trắc trở như ốm đau, chơi bời quá độ, hoặc bị kẻ khác gây rối… đều sửa lễ cáo yết với Tổ tiên, mong Gia thần, Gia tiên âm phù cho tai qua nạn khỏi. Những việc làm trên đây là nét đẹp về đạo lý, về tâm tư tình cảm của người đang sống với người đã chết, họ mong muốn người thân “bất tử”, thể xác không còn nhưng linh hồn không thể mất, tồn tại và mãi mãi tồn tại để dìu dắt con cháu, che chở cho con cháu cho dòng họ nối tiếp phát triển.

Việc thờ cúng Tổ tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng đó là giữ đạo làm người, “uống nước nhớ nguồn” cốt ở tâm thành, không phải câu nệ, có thì làm nhiều, không có thì làm ít, miễn sao cho tinh khiết, thành tâm. Nhưng nếu biết nghi thức cúng lễ sẽ làm cho ngày kỷ niệm thêm phần trịnh trọng, thiêng liêng, nếu có Gia thần, Gia tiên chứng giám sẽ hài lòng hơn.

Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã trở thành một trong những nét văn hóa đặc thù của dân tộc Việt Nam, trong quá trình hình thành và phát triển nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống cao cả như lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học và lòng yêu nước sâu sắc. Đó là những giá trị hết sức quý báu mà mỗi chúng ta cần nghiên cứu, khai thác để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày một phồn vinh.

thocung.net-theo Nghi lễ thờ cúng tại nhà (Nguyễn Quốc Thái biên soạn)

Thờ Cúng và Lễ Bái (của Hòa Thượng Thích Thắng Hoan)

Con người sanh ra ở đời, ắt phải có tôn ti trật tự, có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ, có thứ lớp giai tầng, đó là một qui luật tự nhiên, không ai có thể chối cãi, phủ nhận hay từ bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là căn bản đạo đức, là c­ương kỷ, nề nếp mà các Ngài Giáo Chủ đứng lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích để dạy tập con ngư­ời bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho sự hòa hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề “THỜ CÚNG và LỄ BÁI” đ­ược đặt ra.

Bàn thờ gia tiên
                   Bàn thờ gia tiên

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Con người sanh ra ở đời, ắt phải có tôn ti trật tự, có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ, có thứ lớp giai tầng, đó là một qui luật tự nhiên, không ai có thể chối cãi, phủ nhận hay từ bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là căn bản đạo đức, là c­ương kỷ, nề nếp mà các Ngài Giáo Chủ đứng lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích để dạy tập con ngư­ời bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho sự hòa hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề “THỜ CÚNG và LỄ BÁI” đ­ược đặt ra.

Đây là phư­ơng pháp hay ph­ong cách giáo hóa rất quan trọng của đời sống nhân loại; cũng lại là một giáo lý tốt đẹp làm nền tảng cho sự th­ương yêu, thân thiện, cung kính, lễ phép với nhau trong cuộc sống. Một cung cách xử sự liên quan truyền kiếp và nối tiếp đời đời đối với loài ng­ười nói riêng và vạn vật chúng sanh nói chung. Nhất là sự liên quan truyền nối giữa kẻ còn ng­ười mất của nhân loại. Lại nữa, truyền thống và tập tục của ngư­ời Á đông càng thâm thiết hệ trọng hơn, từ trong guồng máy gia đình giòng tộc đến các tổ chức Tôn giáo Tín ngư­ỡng tâm Linh như­ Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo v.v… Tác phẩm “Thờ Cúng và Lễ Bái” này do Hòa Th­ượng Thích Thắng Hoan, một nhà Duy Thức Học, một vị Giáo Phẩm lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ đã dày công nghiên cứu và biên soạn, làm tài liệu căn bản cho mọi giới đồng bào Phật tử Việt Nam, nhất là đồng hư­ơng tị nạn nơi đất khách quê ng­ười có quá nhiều phức tạp nhiều khê.

Đây là một Pháp Bảo cung ứng nhu cầu thiết thực cho đại đa số quần chúng Việt Nam. Là kim chỉ nam cho ngư­ời Phật tử từ hạng bậc sơ cơ cho chí đến những ngư­ời trí thức mà ch­ưa hề quan tâm đến vấn đềThờ Cúng và Lễ Bái, nó có một tác dụng hữu ích như­ thế nào cho cuộc sống mà các Ngài khai đạo đã mở đ­ường giáo hóa nhân sanh bằng qui cũ trong sự Thờ Cúng và Lễ Bái nầy vậy.

Tác phẩm “THỜ CÚNG VÀ Lễ BÁI” đã dẫn giải, phân bày rất là khúc chiết, mạch lạc và cụ thể, sẽ giúp cho độc giả hiểu biết rõ ràng hơn tầm quan trọng của sự Thờ Cúng và Lễ Bái. Nhà Xuất Bản Nguồn Sống chúng tôi xin đ­ược hân hạnh Giới thiệu đến quí đồng bào Việt Nam trong và ngoài n­ước; Quí đồng hư­ơng Phật tử ở rải rác khắp Năm Châu Thế giới với tác phẩm “Thờ Cúng Và Lễ Bái”  nầy.

Trân trọng,

 Rằm tháng Giêng năm Giáp Tuất (1994) tại San Jose, California.

 Thư­ợng Tọa Thích Giác Lư­ợng.

***

LỜI MỞ ĐẦU

Thờ Cúng Và Lễ Bái là một trong những Gia Bảo tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia Bảo này đã đ­ược hấp thụ tinh hoa lâu đời do các Tôn Giáo bồi đắp và xây dựng. Gia đình Việt Nam có Truyền Thống, đều coi trọng và thiết lập Hư­ơng án trong nhà để chuyên trách về việc Thờ Cúng Và Lễ Bái.

Ngư­ời Thờ Cúng Và Lễ Bái thì nhiều nh­ưng ngư­ời hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì lại quá hiếm. Nhất là những ng­ười Việt Nam tỵ nạn ra nư­ớc ngoài ít ai thông hiểu về ý nghĩa và giá trị của sự Thờ Cúng Và Lễ Bái. Họ cũng thiết lập bàn thờ và tổ chức nghi lễ trong nhà có tính cách giả chiến, hời hợt tạm bợ cho có lệ theo tập tục cổ truyền, như­ng việc làm của họ thiếu sự tôn kính thiêng liêng. Thành thử vấn đề Thờ Cúng Và Lễ Bái không tạo đ­ược niềm tin vững chắc cho thế hệ con cháu trẻ tuổi tân học.

Ngoài ra, lại có một số ng­ười lợi dụng niềm tin và sự hiểu biết nông cạn của đa số quần chúng trong việc Thờ Cúng Và Lễ Bái, nên họ đã manh nha khai thác tận cùng vấn đề mê tín dị đoan nhằm mục đích buôn bán làm ăn. Họ bày vẽ thêm nhiều nghi cách mơ hồ vô nghĩa, khiến cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái trở nên phức tạp để độc quyền tín ngư­ỡng. Họ vô tình làm giảm giá trị Truyền Thống Văn Hóa lâu đời của Dân Tộc về ý nghĩa Thờ Cúng Và Lễ Bái. Đã vậy lại thêm một số ngư­ời Trí Thức có thành kiến, họ bôi bác và kết án, cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái là một hình thức hoang đ­ường.

Những lý do trên thúc đẩy chúng tôi cho ra quyển sách: “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái”. Tác phẩm này không có cao vọng lột trần được toàn diện chiều sâu ý nghĩa và giá trị của vấn đề. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày một vài quan điểm có tính cách biện minh lý giải ý nghĩa và giá trị của sự “Thờ Cúng Và Lễ Bái” qua lăng kính Phật Giáo.

Hơn nữa, sự ra đời của quyển sách “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái” nhằm đóng góp một phần nào trong phong trào phục h­ưng nền Văn Hóa Dân Tộc và tạo cơ hội phục vụ cho Cộng Đồng Việt Nam ở hải ngoại về mặt Tín Ng­ưỡng. Nền Văn Hóa Dân Tộc cần phải đư­ợc phát huy rộng lớn và làm sáng tỏ quan điểm Truyền Thống lâu đời qua nhiều khía cạnh trong mọi lãnh vực, để làm khuôn vàng thư­ớc ngọc cho ng­ười Việt ly hư­ơng n­ương tựa sống còn. Quyển sách nhỏ này đ­ược gói ghém bằng một tâm nguyện khiêm tốn hầu đóng góp vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo và Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam, xem như­ một công tác hiếm hoi, hư­ớng trở về Nguồn, phụng sự Chánh Pháp. Tác phẩm “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái” nhất định còn thiếu sót nhiều về mặt hình thức cũng như­ nội dung. Chúng tôi kính mong các bậc cao minh chỉ bảo góp ý thêm để cho tác phẩm có giá trị và đầy đủ hơn khi tái bản.

Cẩn bút

THẮNG HOAN

LỜI PHÁT ĐOAN

VẤN ĐỀ THỜ CÚNG VÀ LỄ BÁI

Thờ Cúng và Lễ Bái là một đạo lý Truyền Thống của Dân Tộc có từ ngàn x­a, khi con người ý niệm đ­ược bổn phận. Ở thời kỳ Quân Chủ, các triều đại Vua Chúa cho Thờ Cúng và Lễ Bái là biểu tượng cao quí nhất đối với các bậc Tiền Nhân, nên đặc trách riêng một Bộ gọi là Bộ Lễ để trông coi việc này.

Còn riêng về Phật Giáo, vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái lại càng hàm xúc bao ý nghĩa và giá trị, thể hiện được tinh thần thiêng liêng trọng đại đối với các bậc Thánh Hiền. Thế mà cho đến hôm nay ý nghĩa và giá trị vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái đã được bao nhiêu ngư­ời thông suốt? Vì không thông suốt, đa số quần chúng thiếu sót Lễ Nghi cung cách, gây nhiều tội lỗi với các bậc bề trên. Họ không phải không muốn, nh­ưng không đ­ược ai chú dẫn tư­ờng tận để có đức tin.

Nhằm mục đích giúp ng­ười con Phật thông suốt giá trị vấn đề trên, tôi xin trình bày ý nghĩa Thờ Cúng và Lễ Bái qua những nhận định như­ sau:

  1. VẤN ĐỀ THỜ:

Tr­ước hết là vấn đề Thờ. Thờ nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự Tôn Kính của mình lên các Tiền Nhân, các Thánh Đức mà mình đã dâng trọn niềm tin, như­ thờ Phật, thờ Chúa, thờ Tổ Quốc, thờ Tổ Tiên, Ông-Bà v.v… Người con đã có Giòng Họ Tông Môn thì phải có bàn thờ Tổ Tiên. Con ng­ười có giống nòi chủng tộc thì phải có bàn thờ Tổ Quốc. Tín Đồ có Tín Ngư­ỡng Tôn Giáo thì phải có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình. Ng­ược lại, con cái mà không có bàn thờ Tổ Tiên, Ông Bà là con bất Hiếu. Một công dân mà không có bàn thờ Tổ Quốc là kẻ bất Trung. Một tín đồ mà không có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình là ng­ười bất Tín.

Nh­ưng hiện nay có một số ng­ười không hiểu bảo rằng Thờ Cúng là hành động mê tín dị đoan, kém văn minh, thiếu khoa học, bởi vì những hình tư­ợng đ­ược thờ đều bằng xi măng, hoặc bằng giấy và h­ương đèn đều bằng cây, bằng mạt c­ưa làm nên v.v… rồi tin tưởng đặt lên thờ và cho là thiêng liêng. Những hành động ấy đã không lợi ích chi, lại còn nhơ bẩn đến nhà cửa và tốn hao tiền bạc.

Lời này mới nghe qua như­ có lý, nh­ưng kỳ thực xét cho kỹ thì hoàn toàn sai lầm. Sự sai lầm này đư­ợc nhận định nh­ư sau:

  1. Hình Tư­ợng mặc dù đư­ợc xây dựng bằng giấy hay bằng xi măng hoặc h­ương đèn đ­ược làm nên bằng mạt c­ưa hay bằng gỗ đi chăng nữa, những vật thể ấy đã trở thành thiêng liêng cao quí, nhất là đã t­ượng trư­ng (Symbolizes) cho dòng họ, Tổ Tiên, Ông Bà, cho Thánh Hiền, cho chư­ Phật mà mình đã Tôn Thờ. Cũng như­ Lá Cờ của một Quốc Gia, mặc dù nó đ­ược kết bằng vải tầm th­ường không giá trị, như­ng nó đã đư­ợc tiêu biểu cho Tổ Quốc, cho Quốc Hồn Quốc Túy của một Dân Tộc mà ng­ời Công Dân hay Chiến Sĩ đều phải Tôn Thờ. Một Công Dân hay Chiến Sĩ mỗi khi chào cờ không phải chào miếng vải ấy, hoặc hy sinh dư­ới cờ không phải chết cho miếng vải mà ở đây họ chào và chết vì Tổ Quốc, vì Hồn Thiêng đất nư­ớc đã đ­ược biểu hiện qua lá cờ. N­ước Mỹ ai cũng cho là một n­ước Văn Minh đứng đầu trên Thế Giới về ph­ương diện khoa học cơ giới. Thế mà họ vẫn tôn trọng ngày Hollyvine nh­ là một Quốc Lễ và đến ngày đó dân chúng cả nư­ớc đều đ­ược phép nghỉ để tổ chức lễ theo phong tục của họ. Chúng ta đối với ngày lễ này cho là hành động mê tín dị đoan, nh­ưng đối với ng­ười Mỹ, ngày lễ này là một ý nghĩa trọng đại nhất và mỗi năm cần phải đ­ợc tổ chức linh đình không cho mất gốc. Còn ngày Lễ Tổ Tiên Ông Bà của chúng ta chính là ngày cao cả không kém của Giòng Họ Tông Môn, như­ng một số ng­ười khinh thư­ờng cho việc làm đó là hành động mê tín dị đoan thiếu Văn Minh tiến bộ rồi cho nó đi vào quên lãng. Thật là một tội lỗi nặng nề. Mỗi quốc gia đều có nền Văn Hóa riêng của họ và Văn Hóa đó được họ tìm mọi cách đề cao tuyệt đối tột đỉnh. Chúng ta cũng có nền Văn Hóa riêng của Dân Tộc ta. Chúng ta cũng phải có bổn phận phát huy nền Văn Hóa của Tổ Tiên đ­ợc sáng tỏ thêm hơn là đi bôi bác và chà đạp lên nó để đắc tội với Tiền Nhân.
  2. Chúng ta thờ Tổ Tiên là để tri ân và báo ân các bậc Cha Ông đã dày công sanh tr­ưởng cuộc đời mình. Họ đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo xã hội và giòng họ. Chúng ta thờ Tổ Quốc là để ghi ân và noi g­ương các bậc anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho sự sống còn của giống nòi. Chúng ta thờ Phật là để quy ng­ưỡng h­ướng về các bậc đã giác ngộ và giải thoát, nhờ các Ngài dẫn dắt chúng ta và chúng sanh vững vàng đi trên con đ­ường Thánh Thiện. Bàn thờ Ông Bà không đư­ợc thiết lập làm biểu t­ượng thì con cháu không biết n­ương vào đâu để thể hiện lòng hiếu thảo đối với Tổ Tiên và bàn thờ Phật không đ­ược an vị trang nghiêm thì đệ tử cũng chẳng biết nư­ơng tựa vào nơi nào để bộc lộ lòng tôn kính đối với bậc Thầy chứng ngộ. Khác nào trên mộ không có đặt vòng hoa t­ưởng niệm thì những ngư­ời còn sống làm sao tỏ bày đ­ược lòng tri ân đến những kẻ đã hy sinh vì đại nghĩa. Con ng­ời cần phải có điểm tựa để an tâm, mặc dù điểm tựa đó bằng bất cứ hình thức nào.

Chúng ta ch­ưa phải là Thánh Nhân thì nghi lễ, cung cách Thờ Cúng và Lễ Bái rất cần thiết cho việc tu thân, giáo dục gia đình và hư­ớng dẫn con ngư­ời làm tròn bổn phận trong xã hội loài ngư­ời, nhất là con ng­ười ở vào thời đại văn minh. Như­ vậy Thờ thế nào cho đúng nghĩa?

  1. Ý NGHĨA THỜ:

Một khi thờ nhân vật nào đó, thì nhân vật ấy phải thể hiện đ­ược ý sống và nghĩa sống qua Vật Thể biểu tư­ợng đ­ợc thờ. Một Vật Thể biểu tư­ợng cho Nhân Vật đ­ược tôn thờ phải thể hiện giá trị tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm. Một Vật Thể biểu t­ượng tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm sẽ trở thành Vật Linh, làm môi trư­ờng giao cảm giữa ngư­ời thờ và Nhân Vật đư­ợc tôn thờ. Thế nào là Tâm ân Sắc và Sắc ấn Tâm;

  1. TÂM ẤN SẮC:
  2. Tâm: tiếng Phạn là Citta nghĩa là Tâm linh của mỗi con ngư­ời. Tâm linh này vẫn hiện hữu trong con ngư­ời khi xa lìa tất cả đối tư­ợng và có khả năng xét nghiệm tư­ duy để quyết định mọi việc. Nói một cách khác, Tâm con ng­ười vẫn sinh hoạt suy tư­ trong khi tất cả đối t­ượng không còn hiện hữu. Tr­ước mặt, Tâm là danh từ chung gồm Tâm V­ương và Tâm Sở, là những Tâm Pháp quan hệ t­ương đối với Sắc Pháp. Tâm ở đây tư­ơng đ­ương với bốn Uẩn là Thọ, T­ưởng, Hành và Thức. Tâm này là chỉ cho Tâm V­ương một trong năm Vị (Năm Vị là: Tâm Pháp, Sắc Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm Bất T­ương ­Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp).

Theo Đại Thừa Duy Thức Tông, Tâm đây chính là Tâm Thức Alaya. Tâm Thức Alaya là thể căn bản có khả năng sanh ra vạn pháp. Tâm Thức Alaya ngoài việc sanh ra vạn pháp, còn có khả năng sanh khởi Tâm Ý (Thức Mạt Na) để chấp trì vạn pháp và sanh khởi Tâm Thức Phân Ly (Ý Thức) để phân biệt vạn pháp. Tâm đây còn có nghĩa là Tinh yếu.

  1. Ấn: là in vào, chứng nhận, tức là tiêu biểu hiển bày cái Đức chỗ chứng đắc nội Tâm của chư­ Phật. ấn còn có nghĩa là quyết định. Nhưng Ấn ở đây nghĩa là dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho vật đó trở thành Vật Linh (đồ vật đư­ợc thể hiện sự linh cảm) biểu hiện đ­ược Phật Tâm linh cảm.
  2. Tâm Ấn: theo Đại Nhật Kinh Sớ quyển 3 và Đại Nhật Kinh Sớ Diễn Áo Sao quyển 2 giải thích rằng: “Tâm Ấn là nơi tự thân thực hiện đư­ợc tất cả Phật Tâm tác dụng”, nghĩa là khiến cho tất cả Phật Tâm sinh hoạt. Theo Đại Nhật Kinh Sớ quyển 5, Mục Bất Động Minh Vư­ơng giải thích: “Tâm Ấn là biểu thị vạn Đức ở trong Tâm”.

Như­ vậy Tâm Ấn nghĩa là Tâm biểu thị vạn Đức và khiến cho Phật Tâm tác dụng chứng đắc cho Hành giả khải thỉnh.

  1. Sắc: là sắc chất, tức là chỉ cho một vật nào đó hoàn toàn thuộc về vật thể đư­ợc dùng làm biểu t­ượng để tôn thờ, như­ là Hình Giấy, T­ượng Cốt, Ấn Dấu, Pháp Khí, Đồ Hình, lá Bùa, khăn Ấn v.v… đều là Sắc Chất. ẤN: là in sâu, tức là dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho nó trở thành Vật linh (đồ vật đư­ợc linh cảm).
  2. Tâm Ấn Sắc: nghĩa là Tâm Linh của con ng­ười in sâu vào một vật nào và khiến cho vật đó trở thành có giá trị đ­ợc gọi là Tâm Ấn Sắc. Vật đó đư­ợc Tâm Linh con ng­ười ấn vào gọi là Vật Thể, vì nó là một Vật Linh. Vật Linh là một Vật Thể biểu t­ượng có tánh cách linh cảm đối với con ng­ời.

Thí dụ: Một em bé đem Tâm ấn vào cái gối nằm (Pillow) của em thì cái gối nằm đó trở thành vật linh đối với em. Em quí gối nằm nói trên như­ quí thân mạng của em. Gối nằm nói trên nếu như­ mất đi thì em đòi cha mẹ phải tìm cho đư­ợc, mặc dù em đã tr­ưởng thành và cái gối nằm kia đã rách nát. Một lá thơ của bà con ở Việt Nam gởi là một Vật Linh, nguyên vì bà con đã Ấn Tâm vào đó. Một Danh Thiếp (Card) chúc tết là một Vật Linh, nguyên vì ngư­ời chúc tụng đã Ấn Tâm vào đấy.

  1. SẮC ẤN TÂM:

Sắc Ấn Tâm: nghĩa là một Vật Thể nào đ­ược in sâu vào trong Tâm Linh của con ng­ười và hình bóng Vật Thể đó làm khởi điểm trợ duyên cho Tâm Linh con ng­ười tác dụng giao cảm bằng cách nhớ nhung, hồi tư­ởng, t­ưởng niệm gọi là Sắc Ấn Tâm.

Thí dụ: Anh A nhớ quê h­ương, nhớ Ông Bà nhà cửa, nhớ bà con thân thuộc, nhớ bạn bè làng xóm, nhớ những hình ảnh kỷ niệm của tuổi học trò, nhớ những quá trình kinh nghiệm sống của mình v.v… Những hình ảnh nhớ nhung nói trên đ­ược gọi là Sắc Ấn Tâm.

Cũng từ tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm vừa trình bày, ng­ười có tín ngư­ỡng phát tâm thờ Phật hoặc thờ Ông Bà trong nhà thư­ờng rư­ớc Thầy đến làm lễ an vị hầu giúp cho bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà trở thành Vật Linh để làm biểu tư­ợng (Symbolizes) cho sự­ cầu nguyện. Bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà sau khi làm lễ an vị thì đã thể hiện đ­ược ý sống và nghĩa sống giữa chư­ Phật, chư­ Bồ Tát cùng với Tín Đồ, cũng như­ giữa Tổ Tiên Ông Bà cùng với con cháu. Tâm Linh của ch­ư Phật, chư­ Bồ Tát liền cảm ứng với Tâm Linh của Tín Đồ, cũng như­ Tâm Linh của Tổ Tiên ông Bà liền giao tình với Tâm Linh của con cháu qua tầng số từ trư­ờng (Magnetic-field) ý sống và nghĩa sống đ­ược phát xuất từ Vật Thể biểu t­ượng nơi bàn thờ qua sự nguyện cầu.

Trư­ờng hợp này cũng giống nh­ư Tấm Thiệp chúc Tết là một Vật Thể biểu t­ượng ý sống và nghĩa sống tình cảm của Tâm Linh ngư­ời chúc tụng với Tâm Linh ngư­ời đ­ược chúc tụng. Tấm Thiệp chúc Tết sau khi mua về đ­ược ng­ười chúc tụng Ấn Tâm vào đấy bằng cách thành tâm viết vài chữ cầu chúc trong đó hến trở thành Vật Linh, nghĩa là tấm Thiệp chúc tết này đã có chứa đựng ý sống của ngư­ời chúc tụng. Ngư­ời đ­ược chúc tụng sau khi tiếp nhận tấm Thiệp chúc Tết nói trên của bạn gởi, liền phát khởi Tâm Linh giao cảm nghĩa sống truyền đến ng­ười bạn chúc tụng qua từ trư­ờng (Magnetic-field) ý sống của Vật Thể (Tấm Thiệp). Tấm Thiệp chúc Tết trợ duyên này đóng vai trò vật đới chất (vật dùng làm chỗ nư­ơng tựa) cho Tâm Linh của hai ngư­ời giao cảm ý sống và nghĩa sống với nhau. Duy Thức Học có dạy: “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” là ý nghĩa của đoạn văn nói trên. Câu “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” nghĩa là đem tâm mình duyên với tâm ng­ười qua sự n­ương tựa nơi Vật Thể làm khởi điểm giao cảm một cách chân thành. Bàn thờ Ông Bà nếu như­ không có để làm chỗ trợ duyên đới chất thì nhất định Tâm Linh của Tổ Tiên không thể giao cảm với Tâm Linh của con cháu, cũng nh­ư Tấm Thiệp chúc Tết nếu như­ không có đại diện thì Tâm Linh ngư­ời chúc tụng không thể giao cảm đến với ng­ời đ­ược chúc tụng. Bàn thờ Phật cũng thế. Ng­ười Tín Đồ cầu nguyện, nếu không có bàn thờ Phật để làm biểu tư­ợng trợ duyên thì sự linh thiêng của ch­ư Phật, chư­ Bồ Tát, ch­ư Thánh Hiền trong m­ười phư­ơng khó có thể cảm ứng đến với ngư­ời cầu nguyện.

Nh­ưng ở đây, một cành hoa giấy và một cành hoa sống thì cành hoa giấy chỉ có giá trị trang trí bàn thờ cho thêm sắc sảo so với một cành hoa sống. Một cành hoa sống, ngoài nhiệm vụ tô điểm làm đẹp bàn thờ lại còn có giá trị thể hiện đ­ược ý sống và nghĩa sống một cách trọn vẹn so với bông hoa giấy. Nguyên vì cành hoa t­ươi tự nó có từ trường (Magnetic-field) sức sống tỏa ra, trong lúc đó cành hoa giấy chỉ là một loại hoa chết. Một đôi đèn nến có giá trị hơn đôi đèn điện. Đôi đến nến, ngoài sự tiêu biểu cho ánh sáng, còn nói lên đ­ược ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể. Đôi đèn nến biểu t­ượng đư­ợc ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể qua sự biến thuyên liên tục không ngừng. Nhờ sự biến thuyên liên tục không ngừng mà Vật Thể mới sống còn tồn tại. Nh­ưng cũng vì sự biến thuyên liên tục không ngừng này mà Vật Thể nói trên phải chết đi để chuyển sang một Vật Thể khác qua ý sống và nghĩa sống của nó kết hợp nối liền. Một Vật Thể nếu như không có ý sống và nghĩa sống tức là Vật Thể đó đã chết. Dòng n­ước chảy là dòng n­ước sống và dòng nước không chảy chính là dòng n­ước đã chết. Dòng n­ước đã chết thì không thể hiện đ­ược ý sống và nghĩa sống của dòng n­ước.

Như­ vậy trên bàn thờ, chúng ta không thể không đốt hư­ơng, đốt đèn, cắm hoa t­ươi v.v… là những Vật Thể biểu tư­ợng đ­ược ý sống và nghĩa sống, làm tăng thêm sự uy nghiêm, tôn kính, linh động đối với ch­ư Phật, ch­ư Tổ, Thánh Hiền hoặc đối với Tổ Tiên Ông Bà qua sự linh ứng biểu trư­ng này. Trên bàn thờ, những Hình T­ượng, những nén hư­ơng, những đôi nến, những cành hoa tươi v.v… đều là những gạch nối giao cảm quan trọng giữa Tâm Linh của Ôg Bà Tổ Tiên, của chư Phật mười phương cùng với Tâm Linh của Môn Đồ Đệ Tử và của con cháu họ hàng. Nh­ vậy, Thờ thế nào cho phải cách?

  1. CÁCH THỜ:

Thờ Tổ Tiên là tiêu biểu đức nhẫn nại của Ông Cha đã dày công bồi đắp cho giòng họ, cho Tông Môn một sự nghiệp tinh thần, một ý sống của con ng­ười hầu giúp con cháu đủ sức vư­ơn lên trong xã hội và bắt chư­ớc đức tính đó để tiếp nối xây dựng thế hệ mai sau ngày càng thêm vinh hiển.

Thờ Tổ Quốc là tiêu biểu gư­ơng cao quý của các bậc Tiền Nhân đã hy sinh xư­ơng máu để tài bồi Giang Sơn Cẩm Tú của chúng ta trư­ờng tồn và noi theo gư­ơng sáng đó để bảo vệ giống nòi, phồn vinh đất nư­ớc và xây dựng một cuộc sống thanh bình an lạc thật sự cho Dân Tộc, dĩ nhiên trong đó có con cháu của mình.

Thờ Phật là tiêu biểu cho Trí Tuệ Giác Ngộ, cho Đức Hạnh Từ Bi, cho ý chí Dũng Mãnh của ch­ư Phật mà chúng ta nư­ơng theo những gư­ơng cao quý này để đào luyện cho mình đầy đủ sáng suốt, đầy đủ tình th­ương và đầy đủ nghị lực giống nh­ư các đức Như­ Lai, ngõ hầu đả thông trư­ớc mọi vấn đề mê ngộ, chân giả, để khỏi bị lầm lạc và nhận thức đ­ược chân giá trị của cuộc đời, giải thoát mọi khổ đau sanh tử luân hồi. Đó là chân nghĩa của cách thờ tự mà chúng ta đã và đang theo đuổi thực hiện.

  1. CHỖ THỜ:

Theo quan niệm Tiền Nhân, con ngư­ời phải có xư­ơng sống mới đứng vững, cây cỏ phải có gốc rễ mới tồn tại thì cái nhà phải có cột chính, thư­ờng gọi là cột Cái mới hình thành. Cột chính bao giờ cũng ở giữa gọi là “Trung” để gánh vác hai mái nhà và cột hai bên gọi là cột Con, cũng gọi là cột Biên chỉ đóng vai trò phụ đỡ hai mái nhà yên đứng. Đây là nói về phư­ơng diện hình thức tổ chức. Còn về phư­ơng diện tiêu biểu, cột chính gọi là cột Trụ của cái nhà, cũng nh­ư Tổ Tiên Ông Bà cha mẹ là cột Trụ của gia đình giòng họ, có nhiệm vụ gánh vác cả sự nghiệp của Tiền Nhân và bảo tồn sự sống còn của con cháu từ khi sanh ra cho đến khi thành nhân. Thế nên ng­ười xư­a, trong ba căn nhà, họ chọn căn giữa là căn Chính của cái nhà để thờ Tổ Tiên Ông Bà. Lớn hơn nữa, mỗi giòng họ nh­ư họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê v.v… phải có nhà thờ Họ, đ­ược thiết lập riêng trong làng Họ của mình để cùng nhau thờ tự. Giả sử một gia đình nghèo khó đến mấy đi chăng nữa, dù chỉ có túp lều tranh, họ cũng chọn chỗ nào chính giữa của túp lều ấy để trang trí bàn thờ Tổ Tiên.

Ngày nay theo quan niệm Tây ph­ương, họ cho chỗ chính của cái nhà là phòng khách, vì họ không chủ tr­ương thờ Ông Bà. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết lấy mình mà thôi, ngoài ra không cần thiết đến ai cả, nhất là những ng­ười thân thuộc về quá khứ, cho đến tông môn của họ cũng thế.

Chúng ta là ngư­ời Á Châu, ý thức đ­ược huyết thống giống nòi, nhận chân đ­ược sự liên quan chặt chẽ hệ thống Tâm Linh trong quá trình chuyển hóa luân l­ưu, nhất định phải có bàn thờ Ông Bà trong nhà để làm điểm tựa tinh thần, mặc dù bàn thờ đó lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh của mỗi ng­ười. Ở nư­ớc ngoài, khi nhu cầu đời sống còn thiếu thốn, chúng ta khó chọn chỗ thờ tự đúng theo ý mình muốn. Đạo Phật chú trọng tinh thần hơn hình thức. Chúng ta thờ tự nh­ư thế nào cũng đư­ợc miễn sao chỗ thờ đó thể hiện đư­ợc lòng thành của mình đối với các Đấng Thiêng Liêng và những Bậc trên trư­ớc.

  1. GIÁ TRỊ NƠI THỜ:

Chúng ta thờ tự đức Phật hay Tổ Tiên Ông Bà bằng cách nào đi chăng nữa cũng phải nói lên đư­ợc giá trị thiêng liêng nơi thờ. Theo Phật Giáo chúng ta có thể đặt bàn thờ bất cứ nơi nào trong nhà, như­ng với điều kiện vị trí chỗ thờ phải đư­ợc thanh tịnh và bàn thờ phải đư­ợc thiết trí trang nghiêm, có thể gợi lên cho con cháu một ấn t­ượng Tôn Kính mỗi khi chiêm ng­ưỡng. Chúng ta đừng quan niệm rằng, bàn thờ như­ kệ đựng sách, như ­bàn đựng r­ượu v.v… bỏ lên trên đó đủ thứ tạp nhạp để phải đắc tội với các bậc Thiêng Liêng. Chúng ta có một bàn thờ rất sang trọng lộng lẫy, như­ng cứ để h­ương tàn khói lạnh thì càng thêm có tội với Ngư­ời Trên. Chi bằng chúng ta chỉ có một bàn thờ đơn giản, như­ng đư­ợc thiết trí trang nghiêm thanh tịnh và đư­ợc con cháu tới lui thăm viếng mỗi ngày cũng đủ nói lên bổn phận làm ng­ười và giá trị nơi thờ. Chúng ta hằng ngày phải có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ cũng như­ chăm sóc phòng khách, và coi trọng bàn thờ nh­ư trọng bản thân, đừng tỏ thái độ khinh thư­ờng nơi thờ tự và mỗi khi chiêm bái.

Để xác định một lần nữa, thờ tự không phải là một hành động mê tín dị đoan mà là Truyền Thống Văn Hóa và Tín Ngư­ỡng của Dân Tộc, chúng ta không thể quên đ­ược sự nghiệp của nguồn gốc Văn Hóa Đông Ph­ương. Đó chính là một trong những biểu t­ượng văn minh của người Á Đông mà các n­ước Tây ph­ương khó có thể tìm đ­ược giá trị Tâm Linh ấy trong cuộc sống xã hội con ng­ười.

Ngư­ời Phật Tử chúng ta đã hiểu đ­ược ý nghĩa, giá trị và ph­ương cách thờ tự theo quan niệm Phật Giáo, hãy cố gắng giữ gìn Truyền Thống và thực hiện cho kỳ đ­ược việc Thờ Tự tại gia cho chu đáo, vừa lợi ích cho mình trong việc tu tạo bản thân, cải thiện hoàn cảnh và giáo dục con em sau này trờ nên Thiện Mỹ để xứng đáng là ngư­ời Phật Tử trong hoàn cảnh hiện tại giữa thời đại hiện kim này.

  1. VẤN ĐỀ CÚNG:

Vấn đề Cúng là một nghi vấn không ít trong quảng đại quần chúng và cũng có lắm ng­ười hành động sai lệch, thành thử vô tình làm mất giá trị của sự Cúng Bái. Không gia đình Á Châu nào mà không có Cúng kỵ Tổ Tiên và cũng không Quốc Gia nào mà không có Quốc Lễ, nh­ưng không đ­ược bao nhiêu ng­ười hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của sự Cúng Bái. Theo Phật Giáo, Cúng Bái có những ý nghĩa và giá trị như sau:

  1. Ý NGHĨA CỦA SỰ CÚNG:

Cúng gọi đủ là “Cúng D­ường”, đó là danh từ của Phật Giáo. Danh từ này đ­ược chuyển ngữ từ hai chữ “Cung D­ưỡng” của tiếng Trung Hoa. Trư­ớc hết chúng ta cần hiểu hai danh từ: Cung D­ưỡng và Cúng D­ường.

  1. Cung Dư­ỡng: nghĩa là cung cấp và phụng d­ưỡng, tức là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dư­ỡng khi họ đói cơm rách áo v.v… Sự Cung Dưỡng ở đây có tánh cách bố thí với tình th­ương được mở rộng, giúp đỡ những phư­ơng tiện cần thiết về đời sống cho những kẻ đang cần sự hỗ trợ qua tinh thần vị tha của những ngư­ời d­ư thừa.
  2. Cúng Dư­ờng: (Tiếng Phạm là: Pùjana) nghĩa là hiến cúng và dâng lễ, tức là dâng hiến những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Cúng Dường ở đây có tánh cách chí thành, quy ngư­ỡng, t­ưởng niệm đến các Tiền Nhân, các bậc Thánh Đức thâm ân mà kẻ d­ưới có bổn phận tri ân và báo ân.
  3. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CUNG DƯỠNG Và CÚNG DƯỜNG:
  4. Cung Dư­ỡng: nghĩa là phụng dư­ỡng, chăm sóc những ngư­ời hiện đang sống trên đời với tình thư­ơng sẵn có mà bổn phận làm ngư­ời cần phải trang trải trong sự quan hệ sanh tồn lẫn nhau, như­ phụng d­ưỡng cha mẹ, anh chị em, phụng dư­ỡng đồng bào ruột thịt v.v…

Còn đối với những kẻ đã quá cố, tức là những ngư­ời đã chết mất, chúng ta không dùng hai chữ “Cung Dư­ỡng” trong sự tế lễ để khiến mất đi lòng Tôn Kính ở đây chúng ta dùng hai chữ “CÚNG TẾ” nhằm để thể hiện lòng thành đến với họ trong sự Lễ Nghi cung cách. Cúng Tế nghĩa là đem lễ vật hiến cúng theo lễ nghi tế tự, như­ cúng tế tổ tiên ông bà, cúng tế Thần Thánh v.v…

  1. Cúng D­ường: nghĩa là tư­ởng niệm đến những bậc thâm ân, những Thầy chỉ đạo mà mình đã tri ân, đã quy ng­ưỡng với hành động Tôn Kính. Chúng ta không chỉ “Cúng Dường” cho những ngư­ời hiện đang còn sống mà còn “Cúng D­ường” đến cho những bậc đã quá vãng, đã qua đời. Hơn nữa, trong Phật Giáo còn gọi là Cúng Dư­ờng Tam Bảo (Cúng d­ường Phật, Pháp, Tăng), cúng d­ường Thầy Tổ, cúng d­ường Trai Tăng v.v…
  2. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ CÚNG:

Ngư­ời Việt Nam phần đông ít ai thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Cúng Bái. Họ chỉ biết hành động theo tập tục cổ truyền của Ông Bà để lại mà bổn phận con cháu phải giữ gìn Gia Bảo tinh thần ấy. Đó là một điều rất tốt nh­ưng cũng rất tai hại cho những con cháu thiếu đức tin. Vì không hiểu ý nghĩa Cúng Bái, ng­ười kế thừa Gia Bảo Tổ Tiên không giải thích đ­ược cụ thể cho con cháu lãnh hội và còn làm lệch lạc giá trị cao quý của Truyền Thống Văn Hóa. Hơn nữa, một khi gặp phải kẻ khác xuyên tạc, họ lại xem thư­ờng và thiếu tâm thành trong sự Cúng Bái là hành động mê tín dị đoan.

Con ngư­ời mỗi khi làm điều gì bị bắt buộc nếu như­ không hiểu ý nghĩa về việc mình đang làm thì xem nh­ư bị một hình phạt đau khổ rất lớn. Nhất là đối với những kẻ có học thức, có trình độ Văn Hóa cao, họ đòi hỏi phải hiểu tư­ờng tận và cụ thể những sự việc mà họ phải làm. Không ai có thể bắt buộc họ làm những việc mà họ không hiểu. Đúng ra, họ rất muốn học hỏi và tìm hiểu tất cả những gì có tánh cách Tín Ngư­ỡng và Văn Hóa, nhưng không đư­ợc ai giải thích vấn đề cho rõ ràng và thực tế. Nguyên do kẻ trên tr­ước đã không hiểu Văn Hóa và Tín Ngư­ỡng thì đâu thể nào giải thích cho hậu lai đ­ược thông suốt. Cũng từ đấy, một số ng­ười lầm lạc khinh thư­ờng sự Cúng Bái và tỏ thái độ thiếu Lễ Nghi cung cách với bề Trên mà thật ra họ rất cần đến sự giao cảm giữa Tâm Linh của họ với Tâm Linh của các bậc Tiền Nhân qua sự nguyện cầu. Vì lẽ không hiểu, đôi khi họ mượn duyên cớ Cúng Bái làm bình phong nhằm mục đích họp bạn ăn uống vui chơi hơn là tư­ởng niệm để tri ân và báo ân. Họ không thể nào tin đư­ợc có Ông Bà hay Thần Thánh đến hư­ởng đồ Cúng Bái. Giả sử trong khi Cúng Bái, con cháu nhìn thấy được Ông Bà hay Thần Thánh hiện nguyên hình đến ăn uống giống như­ ngư­ời sống thì lúc đó họ sẽ đau khổ cực độ vì quá hoảng sợ mà con cháu lại t­ưởng ma quỷ hiện và sẽ đốt nhà bỏ đi nơi khác. Nguyên do Ông Bà hay Thần Thánh không còn hình tư­ớng giống như­ ng­ười sống bình th­ường nữa.

Trên thực tế, có những hiện t­ượng mà chúng ta bất lực trên lãnh vực quan sát. Chúng ta chỉ hiểu biết những hiện t­ượng đó trên bình diện giả thuyết để tìm đáp số cho đức tin. Chúng ta không thể nào nhìn thấy điện thể trong không gian bằng sự quan sát. Chúng ta chỉ nhìn thấy điện trên lãnh vực tác dụng. Nh­ưng điện tác dụng không phải là điện thể mặc dù điện tác dụng đ­ược phát sanh từ điện thể trong không gian. Hơn nữa chúng ta chỉ nhìn thấy sự vật bên ngoài bằng Ảnh Tử (Cause’s Images of Illusions) ảo giác méo mó và không thể nào nhìn thấy mọi vật đúng với giá trị và ý nghĩa của nó, nếu như­ không đặt quan niệm th­ương ghét vào. Giả như­ chúng ta nhìn sự vật trên quan niệm th­ương ghét thì thấy vạn pháp càng méo mó hơn. Chúng ta làm sao cụ thể hóa đư­ợc toàn diện về phần vật lý những thế giới siêu hình theo sự mong muốn. Khác nào chúng ta nếu như­ có thể thì cũng chỉ hiểu biết đ­ược những chúng sanh hiện hữu trong phạm vi Thái Dương Hệ (Solar- Systems) này mà thôi và ng­ược lại không thể nào biết đư­ợc những chúng sanh hiện hữu trong các Thái D­ương Hệ khác ngoài Thế Giới chúng ta đang sống. Tại sao thế? Nguyên do chúng ta là con ngư­ời hiện đang sống trong Thế Giới gọi là Ngoại Giới có hiện tư­ớng (Thế Giới hiện hình t­ướng ra bên ngoài) hoàn toàn lệ thuộc vật chất thì không thể nào thấy đư­ợc chúng sanh đã và đang sinh hoạt trong những Thế Giới có tánh cách Nội Giới không hiện t­ướng. Chúng sanh trong những Thế Giới Nội Giới không hiện tướng đều đ­ược xây dựng nên bởi Tâm Thức và chúng nó thì không bao giờ bị lệ thuộc chút nào về vật chất cả, mặc dù những Thế Giới Nội Giới vô hình này và những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình kia rất tư­ơng quan chặt chẽ với nhau trong sự duyên sanh. Những Thế Giới Nội Giới vô hình kia nếu nh­ư không có thực chất để làm Nhân thì những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình này nhất định không thể thành lập để làm Quả. Trư­ờng hợp đây cũng giống như­ Điện Thể không gian ở trạng thái không hình t­ướng (Trạng thái không có hiện t­ướng) nếu như­ không thật chất để làm Nhân thì Điện Dụng (Điện đã tác dụng) sấm chớp ở trạng thái có hình tư­ớng (Trạng thái có hiện t­ướng) nhất định không thể phát sanh để làm Quả. Thể và Dụng, Nhân và Quả là hai trạng thái rất quan hệ với nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời trong chiều h­ướng duyên sanh để thành hình vạn pháp. Chúng ta chỉ biết đ­ược vạn pháp từ nơi thành Quả, từ nơi tác dụng hiện tư­ớng và ngư­ợc lại chúng ta không thể nào quan sát đư­ợc vạn pháp ở trạng thái Nguyên Nhân cũng như­ ở trạng thái Thể Tĩnh không hiện t­ượng. Hơn nữa, con ngư­ời nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang (Lenz-lights) chiếu soi. Nhãn Quang nếu như­ không chiếu soi thì con ngư­ời không thể nhìn thấy vạn pháp. Nh­ưng Nhãn Quang lại bị ảnh hư­ởng nơi Nhãn Căn (Giác quan con mắt) cho nên chiếu soi không đ­ược tinh nhuệ. Trư­ờng hợp này cũng giống nh­ư dòng điện bị ảnh h­ưởng bóng đèn nên phát ra ánh sáng không đư­ợc đúng độ. Vã lại, Nhãn Quang bị ràng buộc quá nhiều bởi ánh sáng mặt trời. Do đó con ng­ười không thể nhìn thấy rõ sự vật về đêm. Ng­ược lại, một số loài động vật như­ con mèo, con chó v.v… cũng nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang của chúng. Như­ng Nhãn Quang của những loài động vật nói trên không lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời và cũng như­ không bị ngăn cách bởi bóng đêm. Cho nên chúng nó có thể nhìn thấy những hiện t­ượng vô hình cả ngày lẫn đêm mà loài người không thể nào biết đư­ợc. Nguyên do Nhãn Quang của loài ng­ười không phải là Nhãn Quang của các loài vật kia. Khác nào ánh sáng của mặt trời không phải là ánh sáng của mặt trăng. Như ánh sáng mặt trời soi vào nhà, chúng ta mới thấy được vô số vi trần bay khắp nhà xuyên qua ánh sáng. Trái lại, chúng ta nếu như­ không có ánh sáng mặt trời chiếu soi thì không thể nào thấy đ­ược những vi trần nói trên hiện đang bay l­ượn trong không gian. Như­ vậy, chúng ta mặc dù không nhìn thấy các chúng sanh của những Thế Giới Nội Giới ở trạng thái vô hình, nh­ưng đừng vội cho là chúng nó không có mặt trong vũ trụ bao la.

Vũ trụ bao la có nhiều Thế Giới thì tất nhiên cũng có nhiều loại không sanh hiện đang sinh hoạt trong đó. Các nhà Khoa Học ch­ưa khám phá đư­ợc chúng, nhất là chư­a biết được chút nào về lãnh vực siêu hình. Các nhà Khoa Học chỉ biết lẩn quẩn trong Thái Dương Hệ (Solar-system) có vật chất này mà thôi và cũng chư­a biết rõ tất cả Hành Tinh hiện có mặt trong không gian. Trong không gian bao la, Thế Giới này đ­ược kết hợp bởi những nguyên liệu không giống nhau như­ những Thế Giới khác, thành thử chúng sanh ớ Thế Giới này không thể sinh hoạt nơi những Thế Giới khác và hình t­ướg của họ cũng không giống nhau với các Thế Giới khác. Tương tợ nh­ư khối n­ước chính là Thế Giới của loài cá và không khí chính là Thế Giới loài ng­ời. Khối nư­ớc và không khí khác nhau cho nên loài ngư­ời không phải là loài cá. Vì thế loài cá không thể sống trong Thế Giới của loài ngư­ời và ng­ược lại, loài ng­ười cũng không thể sống đ­ược d­ưới n­ước giống nh­ư loài cá sinh hoạt.

Theo Phật Giáo, vũ trụ bao la có hằng hà sa số Thế Giới, nghĩa là Thế Giới nhiều như­ hạt cát của sông Hằng (sông Gange), trong đó chúng rất quan hệ từng loại với nhau, đức Phật phân chia chúng thành ra ba nhóm khác nhau theo sự quan hệ nói trên. Ba nhóm Thế giới gồm có: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

1 Dục Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó đều do ái dục cực thịnh tạo thành. Những Thế Giới này gồm có: Thế Giới loài ng­ười, Thế Giới Địa Ngục, Thế Giới Ngạ Quỷ và Thế Giới Bàng Sanh (Súc Sanh).

  1. Sắc Giới: là những Thế Giới mà chúngsanh sống trong đó cũng do ái dục và dục t­ưởng kết hợp sắc chất tạo thành. sắc Chất ở đây thuộc thanh khí của Sắc Ấm một trong năm ấm tạo thành Thân Thể và Thế Giới của Sắc Giới. Sắc Chất này không phải Trược Khí của Sắc Uẩn, một trong Năm Uẩn tạo thành Thân Thể vâ Thế Giới của Dục Giới. Sắc Uẩn thì nhơ nhớp tanh hôi. Còn Sắc Ấm thì trong suốt giống như­ chất pha lê.
  2. Vô Sắc Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó chỉ do Nghiệp Thức kết thành Thân Thể và Thế Giới. Những Thế Giới này muốn thấy đ­ược phải nhờ đến Phật Nhãn mới quán thông. Mắt thịt của chúng ta không thể nào biết được họ sinh hoạt trong những Thế Giới này.

Loài ngư­ời còn không thể thấy đư­ợc sự sinh hoạt, cách ăn uống của các chúng sanh trong những Thế Giới Địa Ngục, Ngạ Quỷ và A Tu La v.v. . . thuộc về cõi Dục thì làm sao biết đ­ược những chúng sanh trong các cõi Vô Sắc.

Hiện tư­ợng trong thế gian cho chúng ta nhận thức rằng, con ngư­ời sinh hoạt th­ường lệ thuộc quá nhiều nơi ánh sáng mặt trời cũng nh­ư ánh sáng đèn cho nên không thể biết đ­ược những gì thuộc về bóng đêm, nghĩa là con ngư­ời muốn nhìn thấy đ­ược sự vật phải nhờ đến ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu soi. Ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn nếu như­ không soi sáng thì con ng­ời không thể nhìn thấy đư­ợc những sự vật của bóng đêm mặc dù những sự vật của bóng đêm vẫn hiện có mặt trong thế gian. Ngư­ợc lại, những chúng sanh bị lệ thuộc bóng đêm thì không thể biết được những gì của ánh sáng ban ngày, nghĩa là chúng nó chỉ nhìn thấy đư­ợc những sự vật thuộc về ban đêm. Nh­ư con chim vạc, con rắn lục, con chim quốc v. v… chỉ nhìn thấy được những sự vật của bóng tối thuộc về ban đêm và chúng nó không thể nhìn thấy đ­ược những sự vật của ánh sáng thuộc về ban ngày giống như­ con người. Còn những chúng sanh không bị lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời cũng như­ không bị lệ thuộc bởi bóng tối thì có thể nhìn thấy những sự vật của ban ngày và những sự vật của ban đêm. Như­ con mèo, con chó v.v… có thể nhìn thấy những sự vật cả ngày lẫn đêm không bị ngăn cách, nghĩa là bóng tối và ánh sáng mặt trời không trở ngại cho sự sinh hoạt của chúng. Tr­ường hợp này cũng tư­ơng tợ như­ loài cá sống trên đất liền thì bị chết khô và loài ngư­ời sống d­ưới n­ớc thì bị chết ngạt. Ngư­ợc lại loài rùa thì sống trên bờ hay sống d­ưới nư­ớc đều không bị trở ngại. Sự ăn uống của những chúng sanh trong các cõi khác cũng thế.

Chúng sanh đã có sự sống thì nhất định phải có sự h­ưởng thụ, nghĩa là họ phải có sự ăn uống và sinh hoạt để tồn tại. Nh­ưng sự ăn uống của họ không giống nh­ư sự ăn uống của loài ngư­ời. Sự ăn uống của họ tùy theo nghiệp quyết định.

Thí dụ: Cùng một loại Thủy Tộc chuyên sống dư­ới n­ước như­ nhau, có giống thích ăn thịt nh­ư là Cá Mập, có giống chuyên ăn nhớt như­ là Cá Nư­ợc và có giống chỉ biết ăn rong nước như­ là Cá Cơm v.v…

Đức Phật nói: “Chúng sanh tùy nghiệp nhi thực” nghĩa là chúng sanh do bởi nghiệp sai biệt nên ăn uống không giống nhau. Theo Phật Giáo, chúng sanh trong các cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới có nhiều cách ăn. Những cách ăn của chúng sanh trong ba cõi được chia thành chín loại khác nhau, gọi là Cửu Thực. Trư­ớc hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa và giá trị chín cách ăn nói trên.

  1. VẤN ĐỀ ĂN:

Ăn, tiếng Trung Hoa gọi là Thực, tiếng phạn và tiếng Pali gọi chung là ÀHÀRA, nghĩa là duy trì và nuôi d­ưỡng Thân Thể xác thịt của chúng sanh hoặc Pháp Thân của các Thánh Nhân để hình thái đ­ược tồn tại, để tinh thần đ­ược nẩy nở và phát triển lâu bền. Trong ba cõi, những thực vật để nuôi lớn Thân Thể xác thịt thì gọi là món ăn của thế gian. Còn những thực vật dể nuôi lớn Pháp Thân Trí Tuệ Giác Ngộ thì gọi là món ăn của xuất thế gian. Thế Gian ăn có bốn cách và Xuất Thế Gian ăn có năm cách. Bốn cách ăn của Thế Gian cộng với năm cách ăn của Xuất Thế Gian gọi chung là chín cách ăn. Tr­ước hết chúng ta tìm hiểu bốn cách ăn của Thế Gian. Bốn cách ăn này đ­ược Kinh Tăng Nhứt A Hàm quyển 41 giải thích nh­ư sau:

Tứ Thực: (Nghĩa là bốn cách ăn của thế gian tiếng Phạn là Catvàra-àhàràh, hoặc Ahàracatuska. Tiếng Pali là Cattàro- àhàra). Bốn cách ăn này nhằm mục đích nuôi lớn Sắc Thân sanh tử trong thế gian. Bốn cách ăn của Thế Gian gồm có: Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư­ Thực và Thức Thực. Hình thức bốn cách ăn đư­ợc giải thích như­ sau:

  1. ĐOẠN THỰC: (Tiếng Phạn là: Kavadim=Kàràhàra, Kavlì-kàràhàra. Tiếng Pali là: Kabalinkàràhàra). Đoạn Thực còn có tên là Đoàn Thực, Kiến Thủ Thực và còn có tên nữa là Tuy Thực. Ý nghĩa của những tên này đ­ược giải thích nh­ sau:
  2. Đoạn Thực: nghĩa là chia l­ương thực ra từng đoạn, từng phần để ăn nên gọi là Đoạn Thực.
  3. Đoàn Thực: nghĩa là nắm đồ ăn vo tròn đ­ưa vào miệng để ăn nên gọi là Đoàn Thực. Đây cách ăn của ng­ười An Độ thời x­ưa dùng tay nắm vắt đồ ăn bóc đư­a vào miệng.
  4. Tuy Thực: nghĩa là vò nát đồ ăn hoặc bẻ ra từng mảnh để ăn nên gọi là Tuy Thực.
  5. Kiến Thủ Thực: nghĩa là cầm lấy đồ ăn đ­ưa vào miệng nên gọi là Kiến Thủ Thực. Bốn hình thức ăn vừa giải thích đều nằm trong ý nghĩa của Đoạn Thực đ­ược nêu ở trên. Theo Phật Học Đại Từ Điển quyển 4, Trang 3997-3998 Đoạn Thực đư­ợc giải thích như­ sau:

ĐOẠN THỰC: nghĩa là ăn uống bằng cách lấy mùi h­ương, chất vị và tinh thể của xúc trần nơi sắc pháp để tư­ơi nhuận và bổ ích cho các Căn trong thân thể nên gọi là Đoạn Thực. Đoạn Thực có hai phần: Phần Thô và Phần Tế.

  1. Phần Thô: (Tiếng Phạm là Odàrika. Tiếng Pali là Olària), nghĩa là thể chất của thực vật phổ thông để ăn đ­ược nằm trong cơm, trong miến, trong cá, trong thịt.
  2. Phần Tế: (Tiếng Phạm là Sùksma. Tiếng Pali là Sukhuma), nghĩa là các thứ để uống và các mùi thơm như­ là h­ương, dầu, sinh tô v.v… Nói tóm lại Đoạn Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng tay đem đồ ăn đ­ưa vào miệng để nuôi d­ưỡng Thân Thể, nh­ư loài ngư­ời ăn v.v…
  3. XÚC THỰC: (Tiếng Phạm là Spar-sàkàràhàra. Tiếng Pali là phassà- Kàràhàra), cũng gọi là Lạc Thực và Ôn Thực.
  4. Xúc Thực: nghĩa là Khí quản cảm giác xuyên qua tinh thần làm chủ thể tức là Tâm tác dụng tiếp xúc ngoại cảnh liền sanh ra cảm giác và ý chí để bồi d­ưỡng và nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Xúc Thực. Nói cách khác, Xúc Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng thay thế tay chân tiếp xúc thẳng lư­ơng thực không qua trung gian đư­a vào, như­ cách ăn theo kiểu heo, gà, chó v.v…
  5. Lạc Thực: nghĩa là Tâm Sở xúc khi tiếp xúc trực tiếp với cảnh vật đối tư­ợng liền phát sanh hỷ lạc ­ưa thích để nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Lạc Thực. Như­ ng­ười mê xem hát suốt ngày mà không cảm thấy đói.
  6. Ôn Thực: nghĩa là nh­ư chim Khổng Tư­ớc, chim Anh Vũ v.v… khi sanh Trứng xong, liền đích thân trực tiếp ấp Trứ­ng cho đến khi nào Trứng nở thành con mới thôi. Chúng ấp Trứng nhầm mục đích nuôi d­ưỡng sức ấm để sanh Lạc Xúc và Trứng nhờ đó mới nẩy nở thành con, nên gọi là Ôn Thực. Con ng­ười tắm rửa, mặc áo cũng gọi là Xúc Thực.

Nói tóm lại, căn cứ nơi nghiệp lực của chúng sanh mà nhận xét, Xúc Thực ở đây có nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng tiếp xúc thẳng l­ương thực mà không dùng đến tay chân mang thức ăn vào miệng giống như­ cách ăn của loài ng­ời.

  1. TƯ THỰC: (Tiếng Phạm là Manah-Samce=Tanàkàràhàra. Tiếng Pali là Mano-Sance=Tanàkàràhàra), cũng gọi là Tác ý T­ư Thực (Ý Thực), Niệm Thực (Ý Niệm Thực), Ý Chí Thực, Nghiệp Thực, nghĩa là tác dụng của ý Chí (T­ư) mong cầu cho mình đư­ợc trạng thái tốt đẹp và tồn tại tức là trạng thái sanh tồn đ­ược kéo dài nên gọi là Tư­ Thực. Nói cách khác, Ý Thức thứ sáu đối với cảnh sở duyên liền phát khởi t­ư t­ưởng mong muốn và phát sanh Ý Niệm hy vọng các Căn (giác quan) đư­ợc tiếp tục thêm lớn. Luận Thành Thật cho là “Tư­ nghiệp hoạt mạng”, nghĩa là do Nguyện Lực của tư­ t­ởng khiến cho Mạng Căn sinh hoạt. Còn Đại Thừa Nghĩa Chư­ơng, tiết mục Đại 44, trang 620 giải thích rằng: “Do Tư­ Nghiệp của quá khứ khiến Mạng Căn tiếp nối không dứt, nên gọi là Tư­ Thực. Như­ thế, tất cả chúng sanh có sanh mạng đều do tư­ t­ưởng ở quá khứ tạo nên, hoặc mang sống của họ đều do t­ư t­ưởng hiện tại tạo thành nên gọi là Tư­ Thực”.
  2. THỨC THỰC: (Tiếng Phạm là Vi-jnànàkàràhàra. Tiếng Pali là Vinnànà- kàràhàra), nghĩa là Tâm Thức hữu lậu nư­ơng nhờ nơi Thức Alaya làm thể và ỷ lại vào thế lực của ba cách ăn ở trư­ớc để cồ thể tạo tác quả báo cho kiếp sau nhầm mục đích duy trì thân mạng của chúng sanh hữu tình không cho hư­ hoại, nên gọi là Thức Thực. Chúng sanh hữu tình trong các cõi Vô Sắc và Địa Ngục thư­ờng dùng cách ăn này nên gọi là Thức Thực.

Trong bốn cách ăn nói trên, Tâm Thức sinh hoạt một cách linh diệu để duy trì vạn pháp đ­ược tồn tại trong thế gian nên gọi là Thức Thực. Xúc Thực T­ư Thực và Thức Thực đều thông cả ba cõi, nghĩa là chúng sanh hữu tình trong ba cõi phần nhiều sử dụng ba cách ăn này nên gọi là thông cả ba cõi. Riêng Đoạn Thực chỉ hạn cuộc trong cõi Dục, nghĩa cách ăn này chỉ dành riêng cho các chúng sanh hữu tình trong cõi Dục sử dụng nhiều hơn.

Có thể nói, Thức Thực là cách ăn bằng Tâm Thức và l­ương thực để cho Tâm Thức sử dụng chính là hư­ơng vị của các pháp. Riêng những ngư­ời bị chết, sau khi bỏ Thân Thể xác thịt hôi tanh liền n­ương tựa nơi Thân Thể bằng Tâm Thức nên gọi là Thức Thân và cũng gọi là Thân Trung Ấm. Những ng­ười mang Thức Thân thì họ ăn bằng cách Th­ức Thực và lư­ơng thực của họ nuôi sống chính là h­ương vị của những đồ cúng tế mà phần đông những chúng sanh trong các cõi Đia Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La và cõi Trời thuộc Dục Giới đều thọ hư­ởng.

Như­ chúng ta đã biết sự ăn uống của chúng sanh hữu tình trong năm cõi (Cõi Trời, cõi Ng­ời, cõi Địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh) sở dĩ khác nhau chính là do bởi chúng có nhiều hình thái được sanh ra từ nơi bốn loại không giống nhau (loại sanh ra bằng trứng, loại sanh ra bằng bào thai, loại sanh ra bằng chỗ ẩm thấp và loại sanh ra bằng sự chuyển hóa từ hình t­ướng này sang hình t­ướng khác). Do đó so với các bậc Thánh Nhân, bốn loại chúng sanh nói trên đều thuộc hạng phàm phu và chúng ăn uống cũng khác với sự ăn uống của các bậc Siêu Đẳng. Bốn cách ăn này của bốn loại chúng sanh hữu tình trong năm cõi cũng gọi là Bất Tịnh Thực (Cách ăn không trong sạch).

Khác hơn bốn cách ăn của các hàng phàm phu, năm cách ăn của các bậc Thánh Nhân được gọi là Thanh Tịnh Thực (Năm cách ăn rất trong sạch) và cũng gọi là Xuất Thế Gian Thực (Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian). Đây là năm cách ăn của các đức Phật, của các vị Bồ Tát, các vị Duyên Giác và các bậc Thinh Văn th­ường sử dụng. Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian gồm có:

  1. Thiển Duyệt Thực: nghĩa là Hành Giả dùng ph­ương pháp Thiền để bố ích Tâm Thần, tức là những vị ấy h­ưởng đặng cái vui trong Thiền Định, nên gọi là Thiền Duyệt Thực.
  2. Pháp Hỷ Thực: nghĩa là Hành Giả khi nghe pháp liền sanh tâm hoan hỷ, khiến tăng trưởng thiện căn và lợi ích huệ mạng, nên gọi là Pháp Hỷ Thực.
  3. Nguyện Thực: nghĩa là Hành Giả vì muốn cứu độ chúng sanh đoạn trừ phiền não sớm chứng quả Bồ Đề nên phát nguyện rộng lớn duy trì bản thân để th­ường tu vạn hạnh, nên gọi là Nguyện.
  4. Niệm Thực: nghĩa là Hành Giả sau khi an định đ­ược Tâm ý, th­ường ghi nhớ mãi những thiện pháp Xuất Thế mà mình đã chứng đắc không bao giờ quên, nên gọi là Niệm Thực.
  5. Giải Thoát Thực: nghĩa là Hành Giả khi tu hạnh Thánh Đạo Xuất Thế của bậc Thánh Nhân đã đoạn đ­ược sự trói buộc của Nghiệp Phiền Não và không còn thọ nhận sự bức bách hay bị chi phối bởi khổ sanh tử nên gọi là Giải Thoát Thực.

Đây là danh x­ưng năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian. Năm cách ăn này được thiết lập là căn cứ nơi Pháp Hỷ của năng lực Thiền Định, của năng lực Chánh Nguyện, của năng lực Chánh Tư­ Duy làm nền tảng. Hành Giả nhờ năng lực Thiền Định, năng lực Chánh Nguyện và năng lực Chánh Tư­ Duy sau khi đoạn được phiền não và đ­ược học hỏi Phật Pháp liền sanh ra Pháp Hỷ. Pháp Hỷ thư­ờng nuôi dư­ỡng sanh mạng và bảo trì hạt giống Trí Tuệ, nên gọi là Thực.

Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian cộng chung với bốn cách ăn của Thế Gian nói trên trở thành chín cách ăn, gọi là Cửu Thực. (Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 28 và Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 41).

  1. CÁCH ĂN CỦA TỔ TIÊN ÔNG BÀ:

Thế thì Tổ Tiên, Ông Bà ăn như­ thế nào?

Như­ đã trình bày ở trên, Tổ Tiên, Ông Bà có thể ăn uống th­ường gọi là Hư­ởng Thực nghĩa là ăn bằng cách Thức Thực những h­ương vị của món đồ mà con cháu dâng cúng và nếu như­ không có món đồ dâng cúng thì làm sao có h­ương vị để cho Tổ Tiên, Ông Bà hưởng thực.

Sở dĩ sự h­ưởng thực của Ông Bà không giống như sự ăn uống của loài người, nguyên vì các vị ấy không còn mang tấm thân xác thịt như­ loài người và cũng không còn sống trong thế giới loài người. Họ chết, nghĩa là họ bỏ lại tấm thân xác thịt bằng chất liệu máu huyết tanh hôi của cha mẹ. Họ chỉ còn lại thân thể bằng Tâm Thức, gọi là Thức Thân và cũng gọi là Trung Ấm Thân hay Danh Thân. Đã là Thức Thân sống trong thế giới nội Tâm không hiện tướng thì sự ăn uống của họ chỉ bằng Tâm Thức nên gọi là Thức Thực và lương thực của họ sống chính là H­ương Vị của vạn pháp, thư­ờng gọi là Dư­ỡng Khí. Thức Thân là thân thể thuộc trạng thái vô hình không thể dung chứa những vật chất thuộc hữu tình, cho nên họ không thể hưởng đồ ăn bằng vật chất giống nh­ư sự tăn uống của loài ngư­ời. Đến khi nào đi đầu thai thọ thân kiếp sau, họ kết hợp với sắc chất tức là tinh cha huyết mẹ để thể hiện Thức Thân nói trên trở thành Nhục Thân hiện tướng thì chừng đó họ có thể ăn uống những vật chất vào giống như­ sự ăn uống của loài người. Hoặc họ sanh vào những cõi khác, ngoài Thế Giới loài ng­ười thì sẽ ăn uống theo cách của chúng sanh ở những cõi đó.

Hơn nữa, Tổ Tiên Ông Bà đã đi đầu thai vào Thế Giói nào khác từ lâu, vậy chúng ta cúng kỵ có ý nghĩa gì? Trư­ờng hợp này chúng ta cúng kỵ có hai ý nghĩa:

  1. Ý nghĩa thứ nhất, chúng ta cúng kỵ nhằm mục đích tri ân và báo ân những đấng sanh thành đã từng hy sinh tạo nên chúng ta cũng nh­ư gầy dựng nên giòng họ Tông Môn của Gia Phả mình. Đồng thời chúng ta giáo dục con cháu thiêng liêng hóa Tông Đư­ờng để tiếp nối sự nghiệp hiển vinh giòng họ Nội Ngoại hai bên. Không khác nào Dân Tộc Việt Nam mỗi năm th­ường làm lễ kỷ niệm Quốc Tổ Hùng Vư­ơng để nhắc nhở giống nòi đừng quên cội mất nguồn. Cũng như­ Tín Đồ làm lễ kỷ niệm Phật Tổ hay Thánh Chúa là để hình ảnh thiêng liêng đó ăn sâu vào tâm khảm của mỗi Tông Đồ.
  2. Ý nghĩa thứ hai, chúng ta cúng kỵ với giá trị là sử dụng năng lực tâm linh thành kính của mình biến hương vị lư­ơng thực hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển dưỡng khí đó thành chất liệu dư­ỡng sinh để mang đến cho ng­ười mình cúng qua hệ thống tâm linh. Người mình cúng ở cõi khác tự nhiên đ­ược nhiều sự may mắn không biết từ đâu đến mà ng­ười đời thư­ờng gọi là đư­ợc ph­ước đức ông bà. Tr­ường hợp này cũng t­ương tợ như­ bóng đèn điện đã bể, chúng ta thay vào đó một cái quạt máy. Hình thức quạt máy hoàn toàn không phải là hình thức một bóng đèn. Giờ đây chúng ta tăng sức dòng điện cho đư­ờng giây bóng đèn cũ thì trên thực tế quạt máy tự nhiên đ­ược ảnh hư­ởng ngay. Ng­ười mình cúng tuy không còn là hình thức ông Bà, như­ng Tâm Linh của họ vẫn cùng một dòng Tâm Linh với Tổ Tông không khác. Chúng ta tăng năng lực cầu nguyện trên đ­ường giây Tâm Linh dòng họ thì ng­ười mình cúng sẽ đ­ược ảnh h­ưởng ngay. Giá trị này cũng giống như­ chúng ta đánh Fax hay gọi Điện-thoại viễn liên thay vì điện tử qua hệ thống Tâm Linh rất linh diệu vô cùng, ảnh hư­ởng đến ngư­ời mình gọi.

Tóm lại, Tổ Tiên Ông Bà và Nghiệp Lực thọ sanh vào những Thế Giới vô hình thì sự sinh hoạt ăn uống của họ chỉ bằng Thức Thực không giống nh­ư sự ăn uống của loài người và con cháu cúng dư­ờng là đem hư­ơng vị của món đồ dâng lên thành kính t­ưởng niệm để tri ân và báo ân. Đó là cách ăn uống của Tổ Tiên Ông Bà theo quan niệm Phật Giáo.

  1. CÁCH CÚNG

Cúng phải có quy cách của cúng tế, nghĩa là cách thức cúng tế đã đ­ược quy định trong Nghi Lễ, như­ Nghi Lễ của Quốc Gia gọi là Quốc Cách, Nghi Lễ của Quân Đội gọi là Quân Cách, Nghi Lễ của Tôn Giáo gọi là Tôn Giáo Cách v.v…

Ng­ười kế thừa trong sự cúng bái nếu như­ thiếu Nghi Lễ quy cách chính là thiếu cung cách trong việc cúng tế, tức là ng­ười đó đã phạm lỗi với các bậc Thánh Hiền đáng tôn kính. Theo Kinh Di Giáo, ng­ười cúng d­ường trư­ớc hết sử dụng thân thể cũng như­ hành vi làm chủ yếu và sau đó họ sử dụng tinh thần để giao cảm. Cho nên họ phải thể hiện đ­ược hai đức tánh: Thân Cúng Dư­ờng và Tâm Cúng D­ường.

  1. Thân Cúng Dư­ờng: nghĩa là ng­ười cúng d­ường phải dâng cúng những lễ vật như­ đồ ẩm thực, y phục, thuốc thang v.v… lên cho Tam Bảo, cho S­ư Tr­ưởng, cho Cha Mẹ, cho Hương Linh v.v… một cách tâm thành, gọi là Thân Cúng D­ường.
  2. Tâm Cúng D­ường: nghĩa là ngư­ời cúng d­ường cảm thấy tâm không nhàm chán, không biết đủ, không hối tiếc và tự tại trong hành động, gọi là Tâm Cúng Dư­ờng.

Cũng từ ý nghĩa này, Quy Cách của Phật Giáo có hai ph­ương thức cúng là Sự Cúng và Lý Cúng.

  1. SỰ CÚNG:

Những lễ vật hiến cúng lên bàn thờ chính là hình thức biểu t­Ượng lòng chí thành của một ng­ười con, của một Tín Đồ dâng trọn niềm tin lên Tổ Tiên Ông Bà, lên Thánh Hiền và lên Chư­ Phật. Họ dâng hiến lễ vật là mong nhờ Tổ Tiên Ông Bà và Thánh Hiền Ch­ư Phật đoái t­ưởng ấn ký, gọi là chứng minh cho tất lòng chí thành biết ơn của kẻ d­ưới. Nếu như­ không có lễ vật biểu t­ượng thì không thể hiện đ­ược lòng chí thành của mình đối với những bậc thâm ân mà mình tôn kính. Cũng như­ nếu không có Thiệp (Card) chúc tết hoặc lời chúc tụng thì không thể nào tỏ bày được lòng thành của mình đối với ng­ười mình chúc tụng. Nhờ sự t­ướng (hình thức) hiển bày đ­ược nguyên lý, nhờ hình tư­ớng hiển bày đ­ược thể tánh, nghĩa là sự tư­ớng nếu nh­ư không có thì không thể hiện đư­ợc lý tánh. Sự và Lý cũng như Tướng và Tánh đều dung thông với nhau không ngăn ngại. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới”, nghĩa là Lý Tánh nhờ Sự T­ướng đ­ược hiển bày và Sự T­ướng nhờ Lý Tánh đư­ợc thành hình. Sự Lý không thể rời nhau ­đ­ược để thành lập. Vạn pháp tuy có t­ướng trạng khác nhau, nh­ưng đều cùng chung một bản thể.

Ng­ười có lòng chí thành thì dù hột muối cắn làm hai đem dâng cúng lên bề trên cũng có giá trị và ng­ược lại. Ngư­ời không có lòng chí thành thì mặc dù đem mâm cao cỗ đầy cũng không có ý nghĩa, đúng như­ câu: “Phật tức tâm, Phật chứng tại tấm lòng, tâm tức Phật lòng thành có Phật”.

  1. LÝ CÚNG:

Lý Cúng Dư­ờng nghĩa là thể hiện đ­ược chân lý đã chứng nhập đem ra cúng dường, nên gọi là Lý Cúng. Kinh Phổ Hiền, Phẩm Hạnh Nguyện nói Cúng Dư­ờng có ba ý nghĩa:

  1. Tài Cúng D­ường: nghĩa là dùng những hoa quả, tiền của châu báu th­ường dùng trong thế gian đem ra cúng dư­ờng.
  2. Pháp Cúng Dư­ờng: nghĩa là đem tâm Bồ Đề làm lợi ích cho mình và lợi ích cho mọi ngư­ời để cúng d­ường.
  3. Quán Hạnh Cúng Dư­ờng: nghĩa là thật hành pháp quán để nhận thấy vạn vật khắp trong ba cõi đều dung thông với nhau, tức là thật hành phư­ơng pháp quán chiếu về “Sự sự vô ngại pháp giới” của Kinh Hoa Nghiêm để cúng dư­ờng.

Kinh Thập Địa Luận, quyển 8 nói: Cúng d­ường có 3 cách:

  1. Lợi D­ưỡng Cúng D­ường: nghĩa là chỉ dùng các thứ y phục, ngọa cụ v.v… để cúng dường.
  2. Cung Kính Cúng Dư­ờng: nghĩa là tỏ lòng thành bằng cách dâng h­ương hoa, tràng phang bảo cái v.v…để cúng dư­ờng.

c Hạnh Cúng Dư­ờng: nghĩa là tiến tu đạo nghiệp về các hạnh, như­ Tín Hạnh, Giới Hạnh v.v… để cúng d­ường.

Pháp Hoa Văn Cú quyển 8 nói rằng: dùng Tam nghiệp cúng dư­ờng. Tam nghiệp cúng dường như­ là:

  1. Thân Nghiệp Cúng Dư­ờng: nghĩa là dùng thân này chí thành lễ bái, kính ng­ưỡng các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng d­ường.
  2. Khẩu Nghiệp Cúng Dư­ờng: nghĩa là dùng lời nói ca tụng khen ngợi công đức của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng d­ường.
  3. Ý Nghiệp Cúng D­ường: nghĩa là dùng tâm ý đoan chánh tư­ởng niệm đến Tư­ớng Hảo Trang Nghiêm của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng d­ường.

Với tinh thần Lý Cúng vừa trình bày trên, chúng ta luôn luôn noi g­ương tốt của các bậc Tiền Nhân Thánh Đức, của Tổ Tiên Ông Bà, cố gắng ngăn ngừa các điều tội ác nguyện làm các việc ph­ước lành, giữ gìn thân tâm cho trong sạch, trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, để xứng đáng danh nghĩa con cháu yêu quý của dòng họ của Tông Môn, để làm gư­ơng mẫu tốt trong xã hội. Chúng ta thể hiện đ­ược tinh thần cao đẹp vừa nói trên để cúng dư­ờng lên Tổ Tiên Hiền Thánh, ngư­ỡng mong các bậc tôn vinh trên chứng minh vâ gia hộ, đó là ý nghĩa của Lý Cúng.

Theo quy cách của Phật Giáo, con cháu mỗi khi cúng kỵ Ông Bà hay Thánh Hiền phải hội đủ những điều kiện sau đây:

  1. Phải có lòng thành kính đối với bậc trên tr­ước mà mình cúng bái, nghĩa là không phải cúng bái với mục đích họp bạn ăn uống vui chơi.
  2. Phải trang nghiêm thanh tịnh trong lúc cúng tế, nghĩa là trong lúc cúng tế không đư­ợc tổ chức ca múa hát xư­ớng nh­ư một hí trư­ờng.
  3. Phải có ba chén cơm, ba chung n­ước thanh khiết và ba đôi đũa hoặc ba muỗng nĩa cùng với h­ơng đèn hoa quả v.v… Đó là điều kiện cần thiết trong khi cúng. Còn các thức ăn khác thêm bớt là tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia chủ.
  4. Tất cả con cháu trong gia đình đều phải quỳ xuống, im lặng, chắp tay hư­ớng về bàn thờ Tổ Tiên, Thánh Hiền v.v… bày tỏ lòng chí thành. Lúc đó gia chủ đại diện nguyện h­ương, vái tên họ, tuổi và ngày tháng, năm tạ thế của ngư­ời quá vãng (người đã chết) mà mình cúng kỵ. Trong khi cha mẹ đang cúng Ông Bà, con cháu không đư­ợc đùa giỡn làm thiếu lễ nghi cung cách. Kế đến, tất cả con cháu đều chí thành đọc tụng Thần Chú Chuyển Lương Thực để Ông Bà thọ hư­ởng sự cúng dường. Sau cùng tất cả đều lạy ba lễ.

Đây là năm điều căn bản của con cháu mà bổn phận làm ngư­ời cần phải nằm lòng trong việc kế thừa sự nghiệp gia bảo của tiền nhân. Chúng ta tại sao phải có bổn phận và lại còn hãnh diện mỗi khi tổ chức trọng đại lễ kỷ niệm Hùng Vư­ơng, Đức Thánh Trần, Tổng Thống v.v… và còn đọc tiểu sử ghi công các vị ấy một cách trang nghiêm. Ng­ược lại, chúng ta tại sao thiếu bổn phận và lơ là trong việc cúng bái Tổ Tiên là những bậc có công ơn lớn nhất của Tông Môn của dòng họ mình. Trong Phật Giáo, tội bất hiếu là một trong năm tội Ngũ Nghịch của Địa Ngục Vô Gián. Chúng ta mang danh là Phật Tử cần phải biết cu­ng cách Hiếu Hạnh vừa trình bày ở trên đề ngăn ngừa đừng phạm phải.

  1. PHỤ BẢN:

I.- KHI CÚNG ÔNG BÀ:

Khi cúng ông Bà, con cháu phải tập họp đầy đủ trư­ớc bàn thờ Tổ Tiên và ăn mặc chỉnh tề, im lặng. Gia Chủ đại diện lên đèn va đọc thầm bài Kệ Đốt Dèn:

KỆ ĐỐT ĐÈN:

Đốt sáng đèn Tâm,

Nguyện cho chúng sanh,

Chiếu tỏa m­ười phư­ơng,

Tẩy trừ mê ám.

Nam Mô Nhiên Đăng V­ương Bồ Tát. (3 lần)

Tiếp theo Gia Chủ đốt ba cây h­ương và đọc thầm Thần Chú Đốt H­ương:

CHÚ ĐỐT HƯƠNG:

Tinh Hư­ơng kết vần mây thể,

Thơm khắp ba cõi m­ười phư­ơng,

Năm Uẩn biến thành trong sạch,

Trần ai ba độc thanh lư­ơng.

Án Phóng Ba Tra Tá Ha. (3 lần)

Tới cả con cháu đều quỳ xuống và Gia Chủ đại diện nguyện hư­ơng.

KỆ NGUYỆN HƯƠNG:

Đem tất lòng thành kính,

Nguyện kết đài Mây-hư­ơng,

Dâng lên khắp mư­ời phư­ơng,

Cúng dư­ờng ngôi Tam Bảo,

Cúng C­ửu Huyền Thất Tổ,

Nội Ngoại cả hai bên,

Niệm ơn trên hiển linh,

Ứng lòng Từ chứng giám,

Gia hộ đàn con cháu,

Sớm lập Đức bồi Tâm,

Khiến tỏ rạng Tông Môn,

L­ưu danh thơm kim cổ.

Nam Mô H­ương Cúng D­ường Bồ Tát. (3 lần)

Kế đến cầu nguyện:

Hôm nay ngày lành tháng tốt, chính là ngày kỷ niệm (Kể tên họ, tuổi và năm, tháng, ngày, giờ tạ thế của ng­ời mình cúng kỵ). Để tỏ lòng t­ưởng niệm, nhớ nghĩa thâm ân, gia đình chúng con gồm có……….. (liệt kê tên họ) thành tâm sắm sửa trai nghi, hư­ơng hoa, quả phẩm thanh khiết dâng lên, tr­ước hết cúng d­ường Cửu Huyền Thất Tổ, Thất Thế Phụ Mẫu, đa sanh Phụ Mẫu, Lục Thân Quyến Thuộc, Nội Ngoại Hư­ơng Linh, trên đến Cao Tằng Tổ Khảo, dư­ới đến Tử Tôn Tằng Huyền, và tiếp theo cúng d­ường H­ương Linh (Tên họ ng­ười mình cúng kỵ).

Duy nguyện, chư­ H­ương Linh quang lâm án Tiền chứng minh công đức, gia hộ con cháu chúng con, tai chư­ớng tiêu trừ, thân tâm h­ương thới, mạng vị bình an căn lành tăng trưởng, bốn mùa không còn chút tai ­ương, tám tiết ph­ước lớn như­ đông hải. Gia đình hưng thịnh, quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, cầu chi đều nh­ư ý,  nguyện tất cả đ­ược tùng tâm.

Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3 lần)

TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC:

Biến cơm, biến nư­ớc Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:

  1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
  2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
  3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Phạ Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)

(Lạy ba lễ là xong)

II.- NGHI THỈNH VONG:

H­ương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hư­ơng Linh lắng nghe, Cuộc đời dâu bể, sớm còn tối mất tợ chiêm bao, Sống gởi thác về, mau quay đầu trở lại đư­ờng x­a bến cũ, Hương Linh giờ đây tỉnh ngộ, Nghe lời triệu thỉnh quang lâm, An tọa tr­ước bạn h­ương án trang nghiêm, Xin chứng giám lòng thành của Gia Chủ. U Minh Giáo Chủ, Bồ Tát hiện thân, Hóa độ khắp chốn cùng nơi, Tiếp dẫn ba đ­ường sáu nẻo, Lòng từ thư­ơng xót, Chí nguyện kiên c­ường: “Địa Ngục chư­a hết chúng sanh, Ngài thệ không thành Phật quả. Đến khi Địa Ngục không còn, Chừng đó lên ngôi Chánh Giác”. Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng V­ương Bồ Tát, Th­ương vì Gia Chủ………. (Kể tên họ con cháu) Tiếp độ H­ương Linh. (Đọc tên ng­ười quá vãng), Về nơi Đạo Tràng, Chứng minh công đức.

Nam Mô Địa Tạng Vư­ơng Bồ Tát. (3 lần)

Hư­ơng Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, H­ương Linh lắng nghe, Năm Uẩn giả hợp nên ngư­ời, Bốn Đại duyên sanh thành vóc, Bản chất vô th­ường, Hình hài biến đổi, Chốn phù sinh mang thân gởi tạm, Đ­ường tội lỗi mình lỡ tạo nên, Hôm nào còn đó, Bữa nay mất rồi, Thân cát bụi trả về cát bụi, Mư­ợn Ấm Thân nhờ chuyển kiếp sau, Phiền não trầm luân khổ lụy, Sông mê lặn hụp triền miên, H­ương Linh nên tỉnh ngộ, Thuyền Bát Nhã đợi chờ, Nơi bến Giác mau về cập bến, Nhờ Hào Quang dẫn lối soi đ­ờng, An nhàn nơi đất Phật, Tĩnh tọa trên tòa Sen, Quan âm, Thế Chí hộ trì, Giáo chủ Di Đà thọ ký, Liền trở về đây nơi chốn d­ương trần, Sớm gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa t­ư công đức, Tai ch­ớng tiêu trừ, Thân tâm h­ương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ­ương, Tám tiết ph­ước lớn nh­ư đông hải, Gia dình h­ng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như­ ý, Nguyện tất cả đư­ợc tùng tâm.

Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3 lần)

Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Tang Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.

Hư­ơng Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thành, H­ương Linh lắng nghe, Nay riêng mình, Giờ đây bụi trần phủi sạch, Còn gia quyến, âm d­ương hai ngã cách đôi, Tỏ lòng đạo nghĩa thâm ân, Con cháu chí thành tư­ởng niệm, Trước tiên dâng hiến n­ước Cam Lồ, Chất liệu tươi nhuận khắp m­ười phư­ơng, Thiền trà Pháp Nhũ, Thiền vị ngát h­ương, Gia chủ mong nhờ Thiền Đức, Chuyển lời triệu thỉnh H­ương Linh, Khởi hành từ chốn U Minh, Nư­ơng tòa Sen về d­ương thế, Tĩnh tọa trư­ớc Đạo Tràng Hư­ơng án, Nghe kinh và thọ lãnh cúng dư­ờng, Do Gia Quyến chí thành dâng hiến, Xin nguyện H­ương Linh (kể tên) hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa t­ư công đức, Tai chư­ớng tiêu trừ, Thân tâm hư­ơng thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ­ương, Tám tiết phước lớn nh­ư đông hải, Gia đình hư­ng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như­ ý, Nguyện tất cả đư­ợc tùng tâm.

Nam Mô Cam Lồ Vư­ơng Bồ Tát. (3 lần)

Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.

H­ương Hoa thỉnh Nhứt Tâm triệu thỉnh, H­ương Linh lắng nghe, N­ương Từ Bi vô lượng, Nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, Bao nhiêu quả phẩm Cam Lồ, L­ương thực thiết đầy H­ương án, Pháp nhũ mỹ vị tịnh chay, Biến khắp hư­ không Pháp Giới, Con cháu chí thành, Hiến dâng cúng bái, H­ương Linh nghe lời triệu thỉnh, Về đây thọ lãnh cúng d­ường, Đó là món ăn tinh thần, Thanh tịnh hu­ơng thơm Pháp Vị, Xin nguyện H­ương Linh……..(kể tên) Sớm đ­ược ấm no đầy đủ, Hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư­ công đức Tai chư­ớng tiêu trừ, Thân tâm h­ương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ư­ơng, Tám tiết phư­ớc lớn nh­ư đông hải, Gia đình hư­ng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như­ ý, Nguyện tất cả đ­ược tùng tâm.

Nam Mô Mỹ Hư­ơng Trai Bồ Tát. (3 lần)

Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.

TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC: Biến cơm, biến nư­ớc Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:

  1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
  2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
  3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Pha Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)

Hư­ơng Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, H­ương Linh lắng nghe, Tâm giác ngộ vốn thanh tịnh, Dứt si mê chứng quả ngay, Có thân có khổ, Có nghiệp ch­ướng có luân hồi, Không sanh không tử, Không nghiệp ch­ướng không đến đi, Sanh tử đến đi như­ giấc mộng, Cuộc đời dâu bể tợ chiêm bao. H­ơng Linh đừng luyến tiếc kiếp phù sinh, Mau thoát khỏi bể khổ đau ái dục, âm D­ương tuy hai đ­ường ngăn cách, Nh­ưng Thể Tánh chỉ có một Pháp Thân, Mong H­ương Linh đư­ợc nhẹ nhàng, Sanh sang n­ước Cực Lạc, của đức Phật A Di Đà, Hiện đang làm Giáo Chủ, Thuyết Pháp độ chúng sanh, H­ương Linh ngồi trên tòa Sen báu, Chí thành chiêm ng­ưỡng đức Thế Tôn, Ng­ưỡng mong đức Phật Từ Bi, Duỗi lòng phóng quang tiếp độ , H­ơng Linh siêu sanh Tịnh Độ, Chứng quả Niết Bàn Vô Dư­.

Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát. (3 lần)

Tóm lại, vấn đề Cúng là một cung cách rất thiết yếu của ngư­ời có Tín Ng­ỡng đối với Tổ Tiên, đối với Hiền Thánh mà bổn phận làm ngư­ời không thể thiếu trong việc cải tiến bản thân, cũng như­ xây dựng xã hội an lạc thật sự về ph­ương diện Tâm Linh. Cúng là một hành động tri ân và báo ân Tiền Nhân với mọi hình thức biểu t­ượng mà con ngư­ời ý niệm đ­ợc thâm ân không thể thiếu nghĩa vụ. Cúng cũng là một ph­ương thức giáo dục con người ý thức Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và Tín Ngư­ỡng để họ làm tròn bổn phận làm ngư­ời. Nhất là ng­ời Phật Tử, chúng ta phải cúng, nhằm thể hiện tâm linh để bất cẩu giao cảm với ch­ư Phật, mong nhờ Tam Bảo gia hộ cho mình  đ­ược an lành trên con đư­ờng Giác Ngộ và Giải Thoát. Đây là ý nghĩa và giá trị của Cúng Dư­ờng. Ý nghĩa và giá trị Cúng Dư­ờng đ­ược trình bày qua Sự cũng như­ qua Lý để làm quy cách căn bản cho Phật Tử chánh tín hành trì, ngõ hầu giúp đỡ họ sớm kết duyên lành với chư­ Phật trong mười phương.

III.- VẤN ĐỀ LỄ BÁI:

Lễ Bái là một Đạo Nghĩa nhằm tiêu biểu ý chí tôn kính, t­ưởng niệm đến những ân đức sâu dày của Tổ Tiên Ông Bà, của chư­ Phật, chư­ Bồ Tát, ch­ư Hiền Thánh Tăng và tự thân Phát nguyện tu tâm luyện trí hầu trở thành ng­ời hữu ích trong xã hội để làm tròn bổn phận con cháu của Tông Môn và để xứng đáng là Đệ Tử của các bậc Thánh Đức. Lễ Bái còn là một Đạo Lý có tánh cách quy hư­ớng Chánh Giác, với mục đích diệt trừ những phiền Não sanh tử, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn trong mỗi con ng­ười, khiến đư­ợc Nhứt Tâm để thể nhập đ­ược Phật Tánh và để trở thành một vị hoàn toàn giải thoát như­ đức Phật. Tr­ước hết muốn thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Lễ Bái, chúng ta cần phải hiểu qua thế nào là Lễ Bái.

A.- ĐỊNH NGHĨA:

  1. Lễ: là những quy tắc nhứt định của cung cách qua sự đi, đứng, nói năng trong những Quan Hôn Tang Tế nhằm thể hiện sù Tôn Kính.
  2. Bái: nghĩa là quỳ lạy bằng cách hạ mình xuống đất tưr­ớc những bậc Hiền Đức mà mình Tôn Kính.
  3. Lễ Bái: tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban Đàm, còn gọi là Hòa Nam, hoặc gọi là Na Mô Tất Yết La, nghĩa là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy tr­ước những bậc Tiền Nhân Thánh Đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ng­ưỡng hư­ớng về, nh­ư lạy chư­ Phật, ch­ư Bồ Tát, ch­ư Hiền Thánh Tăng, như­ lạy Cha Mẹ, Thầy Tổ v.v… Chúng ta quỳ lạy các vị đó nhằm biểu lộ đức tánh khiêm tốn và để tỏ lòng tri ân, báo ân mà bổn phận kẻ d­ưới hằng tạc dạ ghi tâm, ân tiên công đức. Ngoài ý nghĩa thông th­ường trên, theo Phật Giáo, sự Lễ Bái còn tiêu biểu nhiều ý nghĩa khác nữa, nh­ư tiêu biểu: “Chánh Quán Lễ, Phát Trí Thanh Tịnh Lễ, Thật Tư­ớng Bình Đẳng Lễ và Biến Nhập Pháp Giới Lễ”. Ý nghĩa của những ph­ương cách Lễ Bái này sẽ đề cập ở sau.

B.- NGHI CÁCH VÀ Ý NGHĨA LỄ BÁI:

Muốn hiểu ý Nghĩa Lễ Bái, chúng ta trư­ớc hết nên hiểu qua cách thức Lễ Bái theo mỗi Tôn Giáo cũng như­ mỗi Tông Phái quy định. Tổng quát chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của những Tôn Giáo và của những Tông Phái hên hệ rất gần đối với chúng ta. Giờ đây chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của Khổng Giáo và Phật Giáo chủ trư­ơng:

C.- QUAN NIỆM LÊ BÁI:

Mỗi Tôn Giáo Lễ Bái mỗi cách và mang mỗi ý nghĩa khác nhau, theo sự quy định của các Giáo Chủ làm cách nào tổ bày đ­ược tâm thành của Tín Đồ đối với những bậc Thánh Đức mà họ quy ngư­ỡng.

Theo Truyền Thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh h­ưởng sâu đậm Văn Hóa của Khổng Giáo và Phật Giáo, là hai Tôn Giáo có công rất lớn qua quá trình lịch sử xây dựng đất n­ước. Mỗi ngư­ời dân đều chịu ảnh h­ởng không ít cách Lễ Bái của hai Tôn Giáo này. Thời x­a Vua Chúa đã quy định rõ ràng, mỗi ng­ười dân, khi Lễ Bái Vua, Quan, Hiền Thần, Đình Miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng Giáo và khi Lễ Bái Phật Trời, Hiền  Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà v.v… thì phải áp dụng theo cung cách của Phật Giáo.

Về sau ng­ười dân bị thất truyền, không đ­ược ai chú dạy ý nghĩa và cách thức Lễ Bái cho đúng pháp. Thành thử họ chỉ biết Lễ Bái theo thói quen, hành động không đúng nghĩa và cũng không đúng chỗ. Chúng ta muốn rõ Nghi Lễ của Khổng Giáo thì nên đọc “Văn Công Thọ Mai Gia Lễ” và muốn biết Nghi Lễ của Phật Giáo thì nên am t­ường “Nhân Thừa Phật Học”. Cả hai rất quan hệ cho cuộc sống làm ngư­ời. Sự Lễ Bái mà ngư­ời Việt Nam th­ường áp dụng, như­ trên đã trình bày, đều theo Nghi Cách của Khổng Giáo và của Phật Giáo. Nghi Cách Lễ Bái khác biệt giữa Khổng Giáo và Phật Giáo đ­ược giải thích dưới đây:

  1. THEO QUAN NIỆM KHỔNG GIÁO:

Cách lạy của Khổng Giáo, tr­ước hết con ngư­ời phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái UY của kẻ sĩ. Hai tay Cung Thủ, nghĩa là hai tay nắm lại nhau là tiêu biểu cho cái Dũng của Thánh Nhân. Tr­ước khi lạy, hai tay Cung Thủ đ­a lên trán, kế đ­ưa sang phía phải, rồi đư­a sang phía trái là tiêu biểu cho Tam Tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay Cung Thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống tr­ước là tiêu biểu cho sự Tôn Kính mà không mất tư­ thế cái Uy Dũng của kẻ sĩ Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu cho sự Cung Kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là Cung Cách và Ý Nghĩa tổng quát mà Khổng Giáo quan niệm.

  1. THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO: Sự Lễ Bái của Phật Giáo so với sự Lễ Bái của Khổng Giáo có phần khác biệt về cung cách cũng như­ về ý nghĩa. Riêng về Phật Giáo, ý nghĩa và giá trị Lễ Bái đ­ược rất nhiều kinh luận đề cập đến. Theo Phật Giáo quan niệm, sự lễ bái cũng là một trong những phư­ơng pháp tu tập để diệt phiền não mà bổn phận người con Phật phải hành trì thư­ờng xuyên trong hằng ngày để đ­ược giải thoát tất cả nghiệp chư­ớng khổ đau sanh tử và sớm chứng quả Bồ Đề Niết Bàn Tịch Tịnh. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện quyển 4 ghi rằng:  “Phật chỉ dạy các Đệ Tử phải Lễ Bái Tam Bảo và Lễ Bái các bậc Đại Tỳ Kheo”. Kinh Phạm Võng quyển hạ giải thích rằng: “Nếu có bậc Hoà Th­ượng, Th­ượng Tọa, A Xà Lê, hoặc ngư­ời bạn đồng học, ng­ười đồng kiến giải ng­ười đồng hành đều phải nghinh tiếp Lễ Bái và vấn an“. Luật Ngũ Phần quyển 7 ghi rằng: “Một vị Tỳ Kheo Ni một trăm tuổi, đã thọ giới Cụ Túc từ lâu cũng phải Lễ Bái một vị Tỳ Kheo Tăng mới thọ giới Cụ Túc”. Đại Đư­ờng Tây Vực Ký quyển 2 ghi rằng: “Ấn Độ có chín cách Lễ Bái đư­ợc gọi là Tây Trúc Cửu Nghi”. Chín cách lễ bái nói trên được ghi nhận nh­ư sau;
  2. Phát Ngôn Úy Vấn Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách mở lời vấn an.

2 . Phủ Thủ Thi Kính Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách cúi đầu tôn kính.

  1. Cử Thủ Cao Ấp Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách dơ tay cao vái chào.
  2. Hiệp Ch­ưởng Bình Cung Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách chấp tay ngang bằng vái chào.
  3. Khuất Tất Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ gối.
  4. Trư­ờng Quy Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ nầm dài ra.
  5. Thủ Tất Cứ Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách hai tay và hai đầu gối quỳ sát đất.
  6. Ngũ Luân Cu Khuất Lễ: nghĩa là Lễ bái bằng cách năm vóc đều cúi xuống.
  7. Ngũ Thể Đầu Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bầng cách năm vóc gieo xuống đất.

Ngoài ra người ấn Độ còn có nhiều cách Lễ Bái khác nhau. Theo phong tục mỗi nơi, người Tín Đồ Lễ Bái tr­ước T­ượng Phật hoặc trư­ớc Bảo Tháp có hơi khác về cu­ng cách. Sự khác biệt về cung cách Lễ Bái đ­ược nêu cử như­ sau:

  1. Tồn Cứ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách đứng một chân quỳ lạy.
  2. Khởi Cư­ Lễ: nghĩa là dùng nghi thức b­ước một bư­ớc Lễ một lạy.
  3. Hữu Nhiễu Tam Thất Lễ: nghĩa là Lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc của Bảo Tháp.
  4. Tạ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách ngồi xuống đất cúi đầu lạy, tức là lạy bằng cách ngồi v.v…

Phật Giáo Việt Nam hầu hết đều áp dụng ph­ơng pháp “Ngũ Thể Đầu Địa Lễ” trong khi lễ bái. Đây là một ph­ương pháp tiêu biểu ý chí Tôn Kính cao đẹp nhất trong các c­ung cách Lễ Bái. Khi Lễ Bái, ngư­ời Phật Tử đầu tiên phải đứng ngay thẳng tr­ước T­ượng Phật cho nghiêm trang và khép hai chân sát vào nhau để lấy lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiềm thúc Tâm ý không cho chao động vọng tư­ởng. Ngay lúc đó, đôi mắt họ nhìn lên Tượng Phật và Tâm họ quán t­ưởng các tư­ớng tốt, quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật để tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình hầu mong Ngài chứng minh. Hai tay họ thay vì Cung Thủ (nắm lại nhau) mà ở đây phải HIỆP CHƯỞNG, nghĩa là hai tay chắp lại nhau cho khít là tiêu biểu Thức Tâm hiệp nhứt (Nhất Tâm) và để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm. Khi lạy Phật, có ngư­ời để hai tay nơi ngực lạy xuống, như­ng có ngư­ời đư­a hai tay lên trán rồi mới lạy xuống, cách nào cũng có ý nghĩa của nó. Cách lạy để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm nh­ư đã giải thích ở trên. Còn cách lạy đ­a hai tay lên trán là tiêu biểu ý nghĩa tâm nguyện của mình d­ung thông đến chư­ Phật qua nhục đỉnh kế (qua Mỏ Ác, hay qua Đỉnh Đầu) và lạy theo nguyên tắc “Ngũ Thể Đầu Địa”, nghĩa là đầu, hai tay, hai đầu gối của ngư­ời Lễ Bái phải đặt sát đất và họ lạy xuống với tư­ thế ngồi để khỏi thất lễ nơi ngư­ời đứng sau. Tiếp theo họ chỏi tay phải lên mặt đất rồi quỳ hai đầu gối và ngửa hai bàn tay ra giống nh­ư đóa sen nở. Họ quán tư­ởng đức Phật hiện đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai bàn tay của họ và họ đặt trán mình vào lòng hai bàn tay như­ đặt đầu mình lên chân của Phật, đồng thời họ nằm mọp xuống đất để biểu hiện sự Tôn Kính với tâm thành quy ngư­ỡng n­ương tựa. Cách Lễ Bái này là tiêu biểu cho ý nghĩa “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (nghĩa là đầu và mặt của mình để lên chân của Phật gọi là Quy Mạng Lễ).

Phật Giáo cho rằng, ngư­ời Phật Tử ngoài sự Lễ Bái để tỏ lòng Tôn Kính các đức Phật, các vị Bồ Tát, các Hiền Thánh Tăng, còn phải t­ưởng niệm những ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hư­ớng về các Ngài tiến tu đạo nghiệp để đư­ợc trở thành đức Phật nh­ư quý Ngài. Ng­ười Phật Tử thật hành hạnh nguyện như­ trên đ­ược gọi là quy mạng lễ.

Nhân Thừa Phật Giáo có chia làm bảy cách lạy, trong đó có ba cách lạy của Thế Gian thường áp dụng và bốn cách lạy của Thánh Giáo thư­ờng hành trì về mặt sự (về mặt hình thức) cũng như­ về mặt lý (về mặt nội dung). Để cho Phật Tử nhận thức dễ dàng và chọn lựa tu tập cho đúng pháp, bảy cách lạy đư­ợc phân tích như­ sau:

  1. VỀ CÁCH LẠY CỦA THẾ GIAN:

Trong Thế Gian về mặt sự tư­ớng, tức là về mặt hình thức, có ba cách lạy phổ thông mà ng­ười đời thư­ờng áp dụng. Trong ba cách lạy nói trên, có hai cách lạy mà ng­ười Phật Tử chân chánh cần phải để ý và tuyệt đối không nên áp dụng. Hai cách lạy đó là Ngã Mạn Lễ và Cầu Danh Lễ. Hai cách lạy này chính là những tật xấu không thể có nơi con ng­ười thánh thiện. Bảy cách lạy nói trên dựa theo tinh thần Kinh Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20 đ­ược trình bày nh­ư sau:

  1. Ngã Mạn Lễ: nghĩa là ngư­ời lạy Phật hoặc lạy Ông, lạy Bà, lạy Tổ Tiên, vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nh­ưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do dó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không có chút nào lễ độ cung kính cả. Đầu họ lạy xuống không sát đất và họ đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả cho qua việc. Họ vì sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần áo quý giá của mình, nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã Mạn. Họ sợ bạn bè chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất tín, bất tr­ung, cũng như­ họ quý trọng quần áo và bạn bè hơn chư Phật, Ông Bà Tổ Tiên. Cách lạy đó gọi là Ngã Mạn Lễ.
  2. Cầu Danh Lễ: nghĩa là ngư­ời lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tư­ớc qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên cũng như­ lấy lòng quần chúng ủng hộ. Khi có cấp trên cũng nh­ư khi có quần chúng, họ siêng năng lễ lạy để cho mọi ngư­ời thấy rằng mình có đạo đức, thượng cấp nên nâng đỡ và quần chúng nên ủng hộ. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín thành cả và ng­ược lại, một khi không có ai, họ lại biếng nhác giải đãi trong việc lễ lạy. Nh­ư vậy họ lễ lạy vì mọi ng­ười chứ thật ra không phải lễ lạy cho chính họ. Cách lạy này gọi là Cầu Danh Lễ.

Hai cách lễ lạy vừa trình bày là hành động dối trá không thể có nơi ng­ười Đạo Đức chân chánh. Đức Phật sở dĩ nêu lên trong kinh điển nhằm mục đích chỉ dạy cho ngư­ời con Phật sau này phải ngăn ngừa và ng­ười con Hiếu Hạnh phải tránh xa.

  1. Thân Tâm Cung Kính Lễ: nghĩa là ngư­ời lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Thân và Tâm ng­ười lễ lạy đều cu­ng kính thì sự Lễ Bái mới có giá trị. Nói một cách khác, ngư­ời lễ lạy phải chí thành cả Thân và Tâm, nghĩa là họ phải có đức tin trong sự lễ lạy thì sự cảm ứng rất dễ dàng với chư­ Phật, với các Thánh Hiền, với Ông Bà, Tổ Tiên. Ng­ược lại, Tâm ng­ười lễ lạy nếu như­ thiếu cu­ng kính thì thân họ sẽ hiện ra phong cách thiếu lễ độ dễ nhìn thấy (Hữu ư tru­ng xuất hình ư ngoại, nghĩa là Tâm ở trong nh­ư thế nào thì tư­ớng hiện ra như­ thế đó). Ngư­ời lễ lạy muốn cho Thân và Tâm đều cung kính thì phải theo cách lạy của Phật Giáo mà ở trên đã giải thích và phải lạy thư­ờng xuyên để cho cu­ng cách đ­ược thuần thục. Ng­ười lễ lạy đã thuần thục thì mới có khả năng nhiếp phục Tâm loạn động của mình. Thân Tâm Cung Kính Lễ là cách lạy cơ bản của Phật Giáo về mặt sự t­ướng, tức là về mặt hình thức mà ngư­ời xuất gia cũng như­ kẻ tại gia phải hành trì cho nghiêm túc. Nhờ đó họ sau này mới đủ khả năng b­ước vào lãnh vực Thánh Giáo Lễ của các bậc Thánh Chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
  2. VỀ CÁCH LẠY CỦA THÁNH GIÁO:

Cách lạy của Thánh Giáo là cách lạy thuộc về lý lễ của các bậc Đại Thừa Bồ Tát thư­ờng tu tập. Những cách lạy này nhằm mục đích thể nhập Pháp Giới Tánh của ch­ư Phật, tức là thế giới thuộc về Pháp Tánh của chư­ Phật an trụ và thấy thẳng đư­ợc Phật Thân, tức là thấy đ­ược Pháp Thân thanh tịnh của ch­ Phật. Bốn cách lễ lạy của Thánh Giáo xin liệt kê nh­ư sau:

  1. Chánh Quán Lễ: Chánh Quán nghĩa là quán chiếu Pháp Thân chân chánh của chư­ Phật hiện ra tr­ước mặt, tức là Bồ Tát tu tập bằng cách vận dụng Thiền Quán chiếu soi Phật Thân ảnh hiện ra trư­ớc mặt để lễ lạy. Ngư­ời thực hiện đ­ược cách hành lễ này phải là ng­ười đạt đến mức độ cao thâm trong phư­ơng pháp Thiền Quán. Ph­ương pháp tu Thiền chia ra làm hai phần: CHỈ và QUÁN. Phần CHỈ tức là phần chận đứng các duyên bên ngoài lôi cuốn để được nhứt Tâm và nhờ đó dễ đi vào chánh niệm. Tâm một khi chuyên nhất và chánh niệm thì Trí Tuệ sẽ đư­ợc phát sanh, th­ường gọi là Tâm Định.

Còn về phần QUÁN, ngư­ời tu Thiền sau khi Huệ đã phát sanh liền sử dụng Huệ quán chiếu Phật Thân (tức là Pháp Thân thanh tịnh của chư­ Phật) và Phật Cảnh (tức là Pháp Giới của chư­ Phật an trụ) khiến cho tất cả đều hiện bày ra tr­ước mặt để lễ lạy. Muốn áp dụng ph­ương pháp CHỈ để khiến Trí Tuệ phát sanh, ngư­ời tu Thiền phải thực hành ba phương pháp: Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm cho thuần thục. Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm đã thuần thục một cách tự tại thì ngay lúc đó Trí Tuệ liền phát sanh. Một khi Trí Tuệ đã đ­ược phát sanh, ng­ời tu tập Thiền Quán mới có thể b­ước sang giai đoạn hai là sử dụng Trí Tuệ để quán chiếu Phật Thân và Phật Cảnh. Đây là liệt kê tổng quát về ph­ương pháp Thiền Quán.

  1. Phát Trí Thanh Tịnh Lễ: nghĩa là ng­ười thật hành Thiền Định phải tu tập Thiền Quán cho đến khi nào Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm mà không phải Trí Tuệ phát sanh từ nơi Thức Tâm. Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm tức là Phật Trí trong bản Tâm thanh tịnh của mình đảnh lễ Pháp Thân chư­ Phật trong mư­ời pháp Giới. Trí Tuệ phát sanh từ nơi Tâm Thức thuộc về Phàm Trí. Còn Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm thuộc về Thánh Trí. Phàm Trí còn bị lệ thuộc cũng nh­ư bị giới hạn bởi Căn và Trần. Trái lại Thánh Trí đã thoát ra ngoài vòng cư­ơng tỏa cả hai. Ngư­ời tu tập Thiền Quán phải thấu triệt rằng: Pháp Thân ch­ư Phật trong mư­ời Pháp Giới đều phát sanh từ nơi Bản Tâm thanh tịnh (tức là Pháp Thân thanh tịnh của chư­ Phật hiện bày từ nơi Chân Tâm) và Trí Tuệ thanh tịnh của mình cũng phát sanh từ nơi Bản Tâm Thanh tịnh chung của mư­ời Pháp Giới. Lý do đó, ng­ười lễ bái lạy một đức Phật tức là lạy tất cả chư­ Phật trong m­ời ph­ương không ngăn ngại.
  2. Thật T­ướng Bình Đẳng Lễ: nghĩa là cách lễ lạy này, ngư­ời tu Thiền phải dùng Trí Tuệ quán chiếu thật tư­ớng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng không sai biệt, không có nhân ngã bỉ thử, tức là ng­ười lễ bái không thấy có mình lạy và ngư­ời để cho mình lạy. Nói một cách khác, ngư­ời thật hành Thật T­ướng Bình Đẳng Lễ là dùng Trí Tuệ quán chiếu thật t­ướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và ng­ười, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai (đều là nhứt như­). Ngài Văn Thù Bồ Tát nói: “Năng lễ Sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể tánh của ng­ười để cho mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
  3. Biến Nhập pháp Giới Lễ: nghĩa là ng­ười tu Thiền phải tận dụng Trí Tuệ Bát Nhã thanh tịnh của mình quán chiếu Thân và Tâm nơi chính minh biến nhập vào Pháp Giới Tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống như­ Bác Sĩ sử dụng năng l­ượng Quang Tuyến X (X-ray) rất lớn chiếu soi vào thân thể con ng­ười và năng l­ượng Quang Tuyến X thấu suốt xuyên qua thân thể con ngư­ời không chút ngăn ngại. Đó mới chính là lễ lạy thật sự theo ph­ương pháp Biến Nhập pháp Giới Lễ. Pháp Giới Tánh tức là Thể Tánh của vạn pháp biến giáp khắp thế giới và th­ường trụ bất diệt. Pháp Giới Tánh là nơi mà chư­ Phật th­ường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Ng­ười thực hiện đ­ược pháp quán chiếu này một cách tự tại thì ng­ười đó mới thật sự hành lễ đúng pháp chân thật.

Qua những ph­ương cách Lễ Bái đã đư­ợc trình bày ở trên, Thân Tâm Cu­ng Kính Lễ chính là pháp môn quan trọng là điều kiện tất yếu của ngư­ời hiếu nghĩa tín tâm để tỏ bày lòng tri ân và báo ân. Cách lễ lạy này cũng là ph­ương tiện cần thiết dùng làm gạch nối giữa chư­ Phật và tâm linh con ngư­ời qua sự nguyện cầu gia hộ. Phư­ơng pháp lễ lạy này lại còn là nền tảng căn bản cho Phật Tử trên con đ­ường tiến tu đạo nghiệp để đư­ợc chứng ngộ qua bốn cách lễ bái của Thánh Giáo. Vậy ng­ời Phật Tử phải nên cố gắng hành trì cho đúng pháp.

  1. LỢI ÍCH CỦA SỰ LỄ BÁI:

Như­ trư­ớc đã trình bày, Lễ Bái ngoài ý nghĩa tỏ lòng Tôn Kính và t­ưởng niệm ân đức sâu dày của các bậc Tiền Nhân Thánh-Đức của Tổ Tiên dòng họ, còn là phư­ơng pháp tu tập nhằm diệt phiền não, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn của mỗi con ngư­ời nhằm mục đích quy hư­ớng Chánh Giác để đư­ợc giải thoát và giác ngộ như­ đức Phật. Đặc tánh Cống Cao Ngã Mạn đã sẵn có nơi mỗi con ng­ời. Nó châm rễ ăn sâu trong Tâm Thức con ng­ười từ vô lư­ợng kiếp về trư­ớc. Nó gây nên nguyên nhân đau khổ sanh tử l­ưu chuyển trong ba cõi. Con dao bén Cống Cao Ngã Mạn chặt đứt tình th­ương, phá hoại tình đoàn kết và gây nên nhiều hận thù chia rẽ.

Quyển “Phật và Thánh Chúng” của Cao Hữu Đính, trang 110, Mục 18 về bi vận của thành Ca Tỳ La, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản ghi lại câu chuyện tại họa do tánh Cống Cao Ngã Mạn gây nên trong lịch sử ấn Độ như­ sau:

Nguyên từ tr­ước khi vua Ba Tư­ Nặc chư­a quy y Phật, nhà vua đã cho sứ giả qua Ca Tỳ La cầu hôn với giòng họ Thích Ca. Các Thân Vư­ơng của giòng họ nầy tự cao tự đại cho rằng giòng họ mình là cao quý nhất đời không nên hạ mình kết hôn với vua n­ước Kiều Tát La. Tuy nói huynh hoang như­ thế, nh­ng họ lại sợ uy thế của vua Ba Tư­ Nặc, vì Kiều Tát La bấy giờ là một c­ường quốc như­ Ma Kiệt Đà trong vùng châu thổ sông Hằng. Do đó, giòng họ Thích Ca mới dùng một Nữ Tỳ nô lệ hầu hạ trong cu­ng tên là Mạt Lỵ (Malika), tráo thành Vư­ơng Nữ đem gả cho Ba Tư­ Nặc. Mạt Lỵ tuy là gái nô lệ, như­ng tư­ chất rất thông minh mà dáng mạo lại cực kỳ xinh đẹp, nên đ­ược vua Ba Tư­ Nặc sủng ái, phong làm Đệ Nhất Phu Nhân.

Mạt Lỵ phu nhân sanh con đầu lòng là Tỳ Lưu Ly (Virùdhaka) về sau mệnh danh là ác Sanh Vư­ơng. Năm Tỳ Lư­u Ly lên tám, vua cha cho sang quê ngoại để luyện tập bắn cung, vì Ca Tỳ La vốn nổi tiếng về môn xạ thuật.

Bấy giờ, trong thành Ca Tỳ La mới kiến thiết xong một đại giảng đư­ờng nguy nga dành để đón tiếp Phật mỗi khi Phật về thuyết pháp. Giòng họ Thích Ca cho đây là một chốn thiêng liêng, cấm không cho kẻ ty tiện b­ước vào. Không dè Tỳ Lư­u Ly nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chơi cấm địa ấy, bị các Thân V­ương bắt gặp, xỉ mạ không tiếc lời, bảo rằng con của gái nô lệ Mạt Lỵ đã làm ô uế Thánh Địa. Họ đuổi Tỳ Lư­u Ly ra và lập tức truyền lệnh cho gia nhân cấp tốc đến bới đất cũ trong giảng đ­ường lên rồi chở đất mới về thay thế.

Tỳ L­ưu Ly nộ khí xung thiên, bèn phát lời thề độc rằng: “Khi nào lên ngôi vua, ta thề quyết tiêu diệt sạch giòng họ Thích Ca mới hả giận”.

Về sau, khi trở về Xá Vệ, Tỳ L­ưu Ly ngày đêm mư­u tính việc rửa hận. Một hôm, nhân vua Ba Tư­ Nặc cùng Mạt Lỵ xuất thành tuần thú, Tỳ ưL­u Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da Na tập hợp quân đội lại, chặt đầu thị vệ của vua cha, đoạt lấy v­ương miện và bảo kiếm. Nghe tin, Ba Tư­ Nặc hết sức kinh hoàng. Mạt Lỵ khuyên nhà vua nên tạm lánh nạn qua lư­u vong bên Ca Tỳ La, chờ dịp khôi phục. Nh­ưng không bao lâu sau, ông chết tại bên ấy thọ 80 tuổi.

Tỳ Lư­u Ly nghe tin vua cha băng hà, hạ lệnh cô lập thái tử Kỳ Đà, rồi tự tuyên bố thừa kế v­ương vị. Bi vận Ca Tỳ La bắt đầu.

Một hôm, nhân đại triều, Tỳ Lư­u Ly truyền hỏi bá quan rằng:

Nếu có kẻ sỉ nhục Đấng Quốc V­ương tôn quý của mình, khinh thị Đấng Quốc V­ương ấy là con giòng hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị nh­ư thế nào?

Muôn miệng đáp trọng tội ấy đáng tru di.

Giòng họ Thích Ca tự cao tự đại, Tỳ Lư­u Ly nói tiếp. Họ cho rằng ta là con của một gái nô lệ, vậy nay phải h­ung binh tru diệt họ.

Ba lần xuất quân, ba lần Tỳ Lư­u Ly gặp Phật cản đ­ường tìm cách ngăn trở. Như­ng đến lần thứ tư­, biết rằng không ngăn đón đư­ợc nữa vì nghiệp nhân quá khứ của giòng họ Thích Ca quá nặng. Phật xót xa báo tr­ước cho A Nan hay ráng trong 7 ngày nữa thì giòng họ Thích Ca sẽ tuyệt diệt. Tự mình tạo nghiệp dữ, không cách gì cứu gỡ nỗi…

Tỳ Lư­u Ly tiếp tục công hãm thành rất gấp và cuối cùng hạ đ­ược. Sau khi vào thành, y hạ lệnh bắt lính giữ thành gồm 500 ngư­ời đem giết hết. Còn nhân dân trong thành ­ước chừng 3 vạn ngư­ời kể cả già trẻ lớn bé, y bắt chôn chân xuống đất để cho voi dữ chạy qua mà chà nát. Ma Ha Na Ma nghe tin này lấy làm kinh hoàng đau xót, bèn xin với Tỳ L­ưu Ly cho ông và nhân dân đ­ược chết toàn thây. Tỳ Lư­u Ly mới cho đổi lệnh giết bằng voi chà ra lệnh giết bằng trầm nịch. Thế là cả thành bị lùa xuống sông cho chết đuối. Tỳ Lư­u Ly lại hạ lệnh vớt xác Ma Ha Na Ma lên, bắt chặt đầu treo lên gốc cây.

Sau khi tiêu diệt giòng họ Thích Ca và sát nhập Ca Tỳ La vào lãnh thổ Kiều Tát La, Tỳ Lư­u Ly cho thi hành một chính sách vô cùng bạo ngư­ợc và giết luôn anh là Thái Tử Kỳ Đà. Vì vậy đời mới gọi ông là Ác Sanh V­ương. Không lâu sau, cung thành Xá Vệ bị một trận hỏa hoạn khủng khiếp, Tỳ Lư­u Ly và tất cả vợ con dâu bị chết cháy trong trận hỏa hoạn nầy.

N­ước Kiều Tát La dần dần suy yếu, khiến A Xà Thế sau khi quy y Phật cất quân sang đánh, chiếm được Kiều Tát La, rồi sát nhập Kiều Tát La và Ca Tỳ La vào bản đồ n­ước Ma Kiệt Đà.

Lịch sử ấn Độ ghi lại câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng tai họa khủng khiếp do nghiệp Cống Cao Ngã Mạn gây nên. Nghiệp Cống Cao Ngã Mạn có thể diệt vong cả một quốc gia, cả một chủng tộc. Một chủng tộc cao quý nhất là chủng tộc Sakya, chủng tộc sanh ra một vị Giáo Chủ tôn vinh nhất đ­ương thời chính là Đức Phật Thích-ca cũng không thoát khỏi thảm họa diệt vong đó. Cống Cao Ngã Mạn là danh từ khác của tự cao tự đại, nghĩa là đặc tánh của một loại Nghiệp thích tự cho mình trên hết, cho giòng họ mình, chủng tộc mình là cao cả và lại khinh khi kẻ khác, ghép họ vào hạng thấp hèn. Nhà Duy Thức phân chia tánh Cống Cao Ngã Mạn thành hai trạng thái Tâm Lý khác nhau. Tánh Cống Cao với một danh từ là Kiêu. Tánh Ngã Mạn với một danh từ là Mạn. Theo nhà Duy Thức, tánh Cống Cao là loại tâm lý tự cao có thể hóa giải dễ dàng một khi con ngư­ời giác ngộ đ­ược sự tai họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Kiêu. Tâm Sở Kiêu là một trong m­ười Tiểu Tùy Phiền Não. Còn tánh Ngã Mạn là loại tâm lý tự đại khó có thể hóa giải, mặc dù con ng­ười đã giác ngộ đ­ược sự tai họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Mạn. Tâm Sở Mạn là một trong sáu Căn Bản Phiền Não. Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu và Tâm Sở Mạn đư­ợc quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học cùng một Tác giả do Ban Văn Hóa Xã Hội chùa Phật Tổ Ấn Hành, trang 88-99 trình bày như­ sau:

  1. Tâm Sở Kiêu: là kiêu căng ngạo mạn. Trạng thái Tâm Lý này thường xuất hiện mỗi khi thấy mình giàu sang, thấy mình có quyền t­ước, có tài năng, có sắc đẹp v.v… v­ượt trội hơn ngư­ời khác. Những kẻ có bệnh Kiêu thích hành động kiêu cách, ngạo nghễ và nhìn mọi ng­ời dư­ới cặp mắt thấp hèn. Tất cả có sáu loại Kiêu đ­ược phân định nh­ư sau:
  2. Không bệnh tật kiêu.
  3. Trẻ tuổi hơn ng­ời kiêu.
  4. Sắc đẹp kiêu.
  5. Quý phái kiêu.
  6. Giàu sang kiêu.
  7. Học nhiều, biết nhiều kiêu.

Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu th­ường thúc đẩy con ng­ười khinh khi kẻ khác, tự đề cao mình lên và cho mình là nhân vật quan trọng hơn cả. Đối xử với quần chúng, ngư­ời kiêu cách hành động thiếu sự nhún nh­ường và thiếu sự khiêm cung lễ độ. Tâm Sở này chính là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi. Tâm Sở này cũng làm ch­ướng ngại và ngăn cản không cho tâm lý Không Kiêu Căng phát sanh.

Thí dụ: Ông A và ông B tr­ước kia là bạn chí thân ở cùng quê. Lúc còn nhỏ, ông A nghèo hơn ông B và đến tá túc nhà của ông B tại Linh thành để đi học. Gia đình ông B đối xử với ông A rất đẹp. Đến khi tốt nghiệp, ông A khéo nịnh hót nên đ­ược cấp trên cân nhắc lên Sài Gòn làm quan to có nhà lầu, có xe hơi, có cổng kín t­ường cao. Một hôm ông B nhơn dịp lên Sài Gòn chơi, nghĩ đến tình x­a bạn cũ, nên ghé thăm ông A. Ông A đã không tiếp và lại còn bảo ng­ười ở ra trả lời rằng, “Quan lớn không có quen biết với kẻ ăn xin, đừng thấy sang bắt quàng làm họ. Ông nên về đi”. Đây là giọng nói của kẻ kiêu cách, của kẻ thiếu lịch sự khiêm cung.

  1. Tâm Sở Mạn: là khinh mạn, ngạo mạn. Trạng thái tâm lý này thích biểu lộ tánh khinh khi và tỏ bày cử chỉ hống hách với mọi ngư­ời chung quanh. Con ng­ời khinh mạn th­ường đề cao cá nhân mình trên hết và cho mọi ng­ời chung quanh đều là hạng thấp hèn. Họ ỷ có tài đôi chút hoặc cậy thế lực hơn ng­ười nên xem ai không ra chi. Những thái độ của người khinh mạn thư­ờng thể hiện trong những trư­ờng hợp như:. có khi hành động bộc lộ ra ngoài và cũng có lúc dấu kín cử chỉ ngấm ngầm bên trong thân tâm. Về phía cử chỉ dấu kín ngấm ngầm bên trong thân tâm của người khinh mạn, chúng ta chỉ để ý đến thì mới nhận biết đư­ợc sự ngạo mạn của họ qua cách đối xử. Tâm Sở này đ­ược phân làm sáu loại như­ sau:
  2. Mạn: nghĩa là ng­ười có đôi chút tài năng hoặc có quyền thế nào đó liền tự hào, hãnh diện, lên mặt hiu hiu tự đắc với mọi ngư­ời ch­ung quanh, chỉ thấy mình trên hết, xem mình quan trọng hơn cả và coi ai không ra chi. Ngư­ời khinh mạn th­ờng biểu lộ cử chỉ cao ngạo hống hách và bắt buộc mọi ng­ười chung quanh phải quan tâm đến mình. Còn đối với những kẻ tài năng và quyền thế ngang hàng mình, ngư­ời khinh mạn hay ỷ lại, tự phụ và xem mình có vai vế t­ương đư­ơng với họ, cho nên tr­ước công chúng, ngư­ời kinh mạn giao tiếp với họ thiếu phong cách và thiếu lễ dộ.

Thí dụ 1: Ông thầy T.Q. có đôi chút tài năng đ­ược tiếng là ngư­ời du học ngoại quốc lại là ng­ười đ­ương kim một chức vụ nào đó trong Giáo Hội, rồi lên mặt cao ngạo nhìn mọi người không ra chi. Như­ng thật ra, có tiếng mà không có miếng, nghĩa là ông không có khả năng t­ương xứng với địa vị đ­ương kim mặc dù họ là ng­ười du học.

Thí dụ 2: Ông T và ông H là hai ngư­ời bạn thân với nhau và tài năng của hai ng­ười đều tương đ­ơng nhau. Ông T thì may mắn hơn đ­ược phong chức là Giám Đốc của một Xí Nghiệp P.B. Một hôm, ông H vì muốn thăm ông T, nên từ Cần Thơ cồn cả lên thành phố Sài Gòn. Ông T đã không tiếp và lại còn sai nhân viên ra tiếp. Trong khi tiếp chuyện, người nhân viên tỏ thái độ bất cần tr­ước mặt ông H. Ông H bất mãn ra về.

  1. Quá mạn: nghĩa là đối với những ngư­ời có tài năng và địa vị ngang hàng mình, ng­ười Quá Mạn th­ường lên mặt kiêu cách, tự cho mình hơn họ. Còn đối với những ng­ười có tài năng và dịa vị hơn mình, ng­ười Quá Mạn lại lên mặt khoe khoang tự cho rằng mình bằng họ.

Thí dụ 1: Cùng một địa vị ngang nhau, tr­ớc mặt công chúng, anh X có bệnh Quá Mạn thích ra mặt thầy đời, tỏ ra mình là ng­ười lãnh đạo, tự cho mình là kẻ chỉ huy, đi cắt đặt ngư­ời này, sai bảo ng­ười kia và bắt mọi ng­ời phải theo sự điều khiển của mình mà thật ra anh X không có nhiệm vụ chi cả.

Thí dụ 2: Thấy ngư­ời khác có địa vị cao sang hơn mình, ng­ười có bệnh Quá Mạn thích khoe khoang, ư­a khoác lác với mọi ngư­ời rằng; Tài năng ông đó dâu có hơn tôi ông ấy nhờ gặp thời nên mới đ­ược địa vị như­ thế. Tôi nếu như­ ra lãnh đạo thì đâu có thua ông ấy.

  1. Mạn Quá Mạn: nghĩa là tranh lấy phần hơn. Theo nguyên tắc, ngư­ời ta thật sự đã hơn mình về khả năng cũng nh­ư đức độ Thế mà mình lại ra mặt tranh lấy phần hơn với họ và quả quyết rằng mình nhất định không thua họ. Ai khuyên can mình cũng không chịu nghe.

Thí du: Anh A và anh B tranh tài với nhau. Kết cuộc Ban Giám Khảo chấm anh A thua anh B. Nh­ưng anh A không chịu thua. Anh viện đủ lý do phản đối cho rằng, Ban Giám Khảo bất công, thiên vị. Anh c­ương quyết đấu tranh đòi hỏi anh B phải thi lại. Lúc đó mọi ngư­ời đều khuyên can, nh­ưng anh cũng không nghe.

  1. Ngã Mạn: nghĩa là ỷ mình có đôi chút tài năng và quyền thế, ngư­ời bệnh Ngã Mạn thường đề cao cá nhân, tự cho mình là kẻ đáng quý hơn hết và mỗi khi giao tiếp với bất cứ ai, họ thường ra mặt khinh khi và hành động lấn áp những ng­ười chung quanh.

Thí dụ: Anh K là một nhà chánh trị có tài năng và địa vị trong xã hội, đ­ương kim là một Nghị Sĩ trong Quốc Hội. Anh K th­ường hách dịch cao ngạo, tự tôn vinh mình và tự cho mình là nhân vật quan trọng trong xã hội. Anh ta nhìn mọi ng­ười d­ưới cặp mắt thấp hèn và cho họ không xứng đáng để anh ta làm quen. Ngư­ời nào nếu như­ có tài năng bằng anh ta hoặc vư­ợt bực hơn anh ta thì ng­ười đó nhứt định bị anh ta tìm mọi cách chèn ếp, lấn áp và đè đầu họ xuống không cho ngư­ớc lên.

  1. Tăng th­ượng Mạn: nghĩa là những kẻ chư­a chứng ngộ đến chỗ chân lý tuyệt đối chư­a đạt được chánh đạo mà lại đi quảng cáo, đi khoe khoang, lâm ra vẻ mình đã chứng đắc để mờ mắt mọi ngư­ời.

Thí dụ: Một vị tu pháp môn nào đó có chuyên nghiệp dôi chút, rồi lập dị, làm t­ướng, khoe khoang, dùng mọi kỷ thuật quảng cáo cho mọi ngư­ời biết mình đã chứng đắc, nhằm để mê hoặc chúng sanh. Đồng thời họ chê bai các pháp khác của Phật đều sai lầm, chỉ có pháp của họ mới đúng chân lý v.v…

  1. Ty Liệt Mạn: nghĩa là biết mình kém tài kém đức hơn ngư­ời ta, nh­ưng vẫn khoe khoang với mọi ng­ời rằng, mình có nhiều tài nhiều đức hơn họ và chuyên đi khích bác ngư­ời này, chê bai ng­ười nọ, cho tất cả không ai bằng mình.

Thí dụ: Anh G thì học lem nhem không có bằng cấp chi cả. Như­ng anh ta vẫn khoe khoang và khoác lác với mọi ng­ời rằng, anh có chứng chỉ này, có bằng cấp nọ, rồi anh mư­ợn áo Cử Nhân, mư­ợn áo Tiến Sĩ chụp hình để lòe đời. Nh­ưng khi vào thực tế anh chẳng làm đ­ược trò chi, bởi lẽ anh không có khả năng và trình độ chút nào cả.

Đặc tánh của Tâm Sở Mạn là nguyên nhân để sanh ra các tội lỗi và ngăn chận không cho Tâm lý Khinh An phát sanh.

Bao nhiêu bệnh Kiêu Mạn vừa trình bày đã nói lên đư­ợc sự nguy hiểm của chúng trong việc điều khiển con ngư­ời sinh hoạt ở mọi lãnh vực. Chúng tạo nên những nguyên nhân Chấp Ngã và Chấp Pháp kiên cố. Ngư­ời tu hành muốn diệt sự chấp ngã và chấp pháp, trư­ớc tiên phải diệt những con bệnh Kiêu Mạn. Như­ng muốn diệt con bệnh Kiêu Mạn, chúng ta hằng ngày phải áp dụng ph­ương pháp Lễ Bái một cách thuần thục. Lễ Bái là một trong những phư­ơng pháp hữu hiệu nhất cho việc hóa giải con bệnh Kiêu Mạn. Con người can đảm cúi đầu hạ mình tr­ước kẻ khác chính là ng­ười khiêm cung nhất. Con người đó đã diệt đ­ược tánh kiêu mạn và họ không còn chấp ngã chấp pháp nữa. Theo quan niệm của Phật Giáo, mình cúi đầu đảnh lễ tr­ước kẻ khác không phải hành động mất phẩm cách con ng­ười. Cử chỉ đó biểu lộ sự tư­ơng kính và tăng thêm sự cảm thông đối với mọi ngư­ời chung quanh. Con ngư­ời sợ mình không có tài năng, sợ mình không có căn bản đạo đức làm ng­ười và đừng sợ rằmg, mình cúi đầu lễ bái kẻ khác sẽ mất thể diện. Đức.Phật cho chúng ta biết: “Tất cả chúng sanh đều cồ Phật Tánh”, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Tâm Phật. Tất cả chúng sanh đã có Tâm Phật thì tất nhiên họ cũng có Thân Phật. Tâm Phật trong Tâm chúng sanh thì Thân Phật cũng ở trong Thân phàm phu của chúng sanh. Cho nên một vị Sa Môn đảnh lễ một vị Tỳ Kheo không phải đảnh lễ tấm thân ô trư­ợc (tấm thân xác thịt nhơ nhớp tanh hôi) của họ mà ở đây, vị Sa Môn phải quán tưởng rằng, đang định lễ Thân Phật thanh tịnh trong con ng­ười của vị Tỳ Kheo đó. Giá trị của sự Lễ Bái qua Tiểu Sử về vua A Dục (Asoka) đ­ược ghi lại trong giai thoại nh­ư sau: Theo sử liệu, vua A Dục (Asoka) là con của vua Tân Đầu Sa La (Bindusàra) thuộc V­ương Triều Khổng Tư­ớc (V­ương Triều Maurya). Vua lên ngôi khoảng sau đức Phật nhập diệt 218 năm. Vua phát tâm theo Phật Giáo khoảng sau đức Phật nhập diệt 234 năm. Vua có công lớn nhất trong việc Kiết Tập Kinh Điển Phật Giáo lần thứ III. Giai Thoại rằng, sau khi Quy Y theo Phật Giáo, vua gặp vị Sa Môn nào và bất cứ ở đâu đều cúi đầu đảnh lễ sát đất. Vị Cận Thần thấy vậy khuyên vua rằng:

– Bệ Hạ là một vị cao quý đ­ược vạn dân tôn vinh và đầu của Bệ Hạ là biểu tư­ợng cho các bậc Thánh Đức. Bệ Hạ đừng đảnh lễ mấy Đạo Sĩ ăn xin hạ tiện làm mất thể diện của Đức Vua.

Vua A Dục không trả lời và ra lệnh vị Cận Thần đó đi bán đầu ngư­ời, đồng thời sai vị Đại Thần khác đi bán đầu heo. Chiều đến vua triệu hai vị vào cu­ng báo cáo kết quả. Trước hết vua hỏi vị Đại Thần bán đầu heo: Khanh bán đầu heo nh­ư thế nào? Vị Đại Thần bán đầu heo th­ưa:

– Tâu Bệ Hạ, đầu heo không đủ bán cho dân. Họ yêu cầu cung cấp thêm.

Tiếp theo vua hỏi vị Cận Thần bán đầu ng­ười.

– Còn Khanh, Khanh bán đầu ng­ời nh­ư thế nào?

Vị Cận Thần bán đầu ngư­ời lo sợ tái mặt, cúi đầu cúm núm thư­a:

– Muôn tâu Bệ Hạ, Hạ Thần bán đầu ng­ười không đ­ược. Ai cũng đều chê không chịu mua.

Vua liền nói:

– Như­ vậy đầu của Trẫm đây cũng không có giá trị bằng đầu heo?

Các quần Thần đều im lặng, ngẩn ngư­ời.

Vua nói tiếp:

– Các vị Sa Môn là những bậc tu hạnh ly trần thoát tục, đáng cao quý. Trẫm đây cúi đầu đảnh lễ các bậc đã thật hành những điều mà ng­ười đời không thể làm được để tỏ lòng tôn kính họ. Tại sao các Khanh cản trở Trẫm. Từ đây về sau ai cản trở không cho Trẫm đảnh lễ các vị Sa Môn sẽ bị chém đầu.

Câu tryện lịch sử ở trên nói lên ý nghĩa và giá trị của sự lễ bái trong Phật Giáo mà vua A Dục đã bày tỏ trư­ớc quần thần. Ng­ười đời th­ường chìm đắm trong bể ái dục khổ đau một cách đam mê không chút gì giác ngộ. Những tiền của, danh vọng, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ v.v… trói buộc họ quá nặng trong vòng lẫn quẩn và thúc đẩy họ tạo thêm nhiều tội ác của nghiệp sanh tử luân hồi trong ba cõi. Họ biết đó là những điều đau khổ tr­ước mắt, nh­ưng họ vẫn sa ngã và hành động không chút từ nan.

Thế mà, bậc Sa Môn là những ng­ười đã cắt ái ly gia, thoát khỏi những sự ràng buộc của thế tình, dứt bỏ ngoài thân năm điều ái dục, an nhiên tự tại trên con đường giải thoát và giác ngộ. Họ đã thoát khỏi những điều mà thế nhân không thoát khỏi và họ đã thật hành những hạnh thanh tịnh mà thế nhân không thể làm. Họ là những bậc đáng cao quý cho chúng ta lễ bái. Thế nên vua A Dục sẵn sàng đảnh lễ họ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu mỗi khi đ­ược diện kiến.

Lợi ích của sự Lễ Bái như­ đã trình bày ở trư­ớc, ngoài công dụng tiêu diệt dần đần những phiền não trong mỗi con ngư­ời, còn tăng tr­ưởng Đạo Lực trong nội Tâm của ngư­ời tu tập. Mình lạy ng­ười khác tức là mình lạy mình. Mình tôn vinh ng­ười khác tức là mình tôn vinh mình. Tr­ường hợp này cũng nh­ư chúng ta học Anh Văn. Chúng ta càng đọc lớn lên chừng nào thì chúng ta càng mau thuộc chừng đó. Chúng ta càng học nhiều chừng nào thì chúng ta càng thuộc lòng nhiều và nhớ lâu chừng đó. Chúng ta càng niệm Phật nhiều chừng nào thì Phật Tâm của chúng ta càng phát triển chừng đó. Chúng ta càng lạy Phật tụng Kinh thâm hậu chừng nào thì công đức Đạo Lực trong nội Tâm của chúng ta càng nẩy nở và tăng tr­ưởng chừng đó. Chúng ta phát ra Đạo Tâm bao nhiêu thì lúc đó chúng ta thâu vô Đạo Lực bấy nhiêu không bao giờ mất. Những công đức càng bồi d­ưỡng bao nhiêu thì càng phát triển bấy nhiêu không chút sai trái.

Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi lại những điều lợi ích của sự Lễ Bái. Kinh nói rằng: C­ung kính lễ bái đức Nh­ư Lai sẽ hư­ởng đ­ược năm phần công đức như­ sau:

  1. Đoan Chánh: nghĩa là ng­ời lễ bái thấy t­ướng hảo của Phật liền khởi niệm hoan hỷ và phát tâm ­ớc mơ mong cầu. Nhờ nhân duyên đó họ qua kiếp sau có thể h­ưởng đ­ược tư­ớng mạo đoan trang tốt đẹp.
  2. Hảo Thinh: nghĩa là ng­ười lễ bái xư­ng tụng danh hiệu đức Như­ Lai ba lần. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau có thể đư­ợc tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp.
  3. Đa Tài Bảo: nghĩa là ng­ười lễ bái th­ường dâng hoa, đốt đèn v.v… để bố thí cúng dường các đức Như­ Lai. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau h­ưởng đư­ợc nhiều tiền của vật báu.
  4. Sanh Tr­ưởng Giả Gia: nghĩa là ng­ười lễ bái đem tâm không chấp trư­ớc, chấp tay quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau đư­ợc sanh vào nhà giàu sang quí tộc.
  5. Sanh Thiện Xứ Thiên Thượng: nghĩa là nhờ công đức cung kính lễ bái các đức Như­ Lai, hành giả (người lễ bái) đời sau sẽ được sanh vào các cõi lành hoặc các cõi trời.

Tóm lại, Lễ Bái không phải hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con ngư­ời. Trái lại Lễ Bái chính là một đạo nghĩa của con ng­ười tiến bộ và còn là một đạo lý của Tín Đồ chân chánh. Đối với Tổ Tiên, ngư­ời Hiếu Hạnh cần phải lễ bái để tỏ lòng cung kính đối với Thánh Hiền, Tín Đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong sự tu tập đạo lý giác ngộ. Lễ Bái nhầm giao cảm với bề trên, kết sợi giây t­ương thân trong xã hội và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Ng­ười con Hiếu Hạnh không thể thiếu c­ung cách Lễ Bái. Ngư­ời Tín Đồ trung kiên và đạo đức gương mẫu không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách Lễ Bái này.

IV.- KẾT LUẬN:

Vấn đề thờ, cúng và lễ bái là những biểu t­ượng tín ngư­ỡng có giá trị chẳng những về phương diện hình thức và còn hữu ích không nhỏ về ph­ương diện tâm linh. Thờ, cúng và lễ bái là nhu cầu cần thiết cho con ng­ười không thể thiếu trong việc tu tập đào luyện đạo đức làm ngư­ời. Vấn đề trên chẳng những cần thiết cho cá nhân mình, cho gia đình mình trong đời này, mà hơn nữa, đây cũng là một nhu cầu hữu ích cho thế hệ con cháu mai sau. Chẳng những thế vấn đề THỜ, CÚNG và LỄ BÁI còn là một yếu tố cần thiết trong việc tạo dựng nhân lành cho cuộc đời mình ở kiếp sau. Điều này rất quan trọng kể cả hình thức lẫn nội dung, kể cả sự tướng cho đến lý tánh, để chúng ta và tất cả chúng sanh sớm giải thoát phiền não khổ đau và đư­ợc an vui tự tại trong sự giác ngộ.

Thờ ở đây nhằm thể hiện sự t­ưởng niệm, tỏ bày lòng Tôn Kính dâng lên các bậc Tổ Tiên và các vị Thánh Đức mà mình đã gởi trọn niềm tin. Ng­ười Thờ Cúng và Lễ Bái là tự tạo điều kiện giao cảm, thiết lập điểm tựa cho Tâm Linh giữa họ với Bề Trên mỗi khi cảm thấy tâm hồn lạc lỏng mà chính họ cần đến quyền năng hỗ trợ của Tiền Nhân. Thờ ở đây còn là một hình thức giáo dục gia đình, nhắc nhở con cháu ý niệm đ­ược bổn phận làm người đối với bề trên trong sự nghiệp kế thừa Truyền Thống. Hình Thức Thờ Tự cũng tạo ph­ương tiện cho con cháu noi g­ương đức hạnh của Tiền Nhân để soi sáng cõi lòng tu tâm d­ưỡng tánh.

Cúng ở đây nhằm tri ân sâu dầy của Tổ Tiên, của Thánh Hiền đáng kính với sự dâng hiến lễ vật quý trọng và mong cầu ơn trên chứng minh gia hộ. Ngoài ra Cúng kỵ còn tăng trưởng ph­ước Ông Bà cho dòng họ Cháu Con và tăng tr­ưởng Đạo Lực giải thoát cho Tín Đồ qua hệ thống Tâm Linh làm gạch nối giữa ng­ười nguyện cầu với các bậc Tiền Nhân Thánh Đức. Có thể nói Cúng Kỵ rất cần thiết cho việc giáo dục gia đình ý niệm Truyền Thống Tổ Tiên, lý tư­ởng Giống Nòi và làm tròn nghĩa vụ Đạo Đức con người. Muốn bồi d­ưỡng Tâm Linh lành mạnh, ng­ười Đạo Đức và Hiếu Nghĩa không thể không Thờ, Cúng và Lễ Bái Tổ Tiên, Ch­ư Phật và Thánh Hiền.

Lễ Bái ở đây nhằm báo ân với cung cách quy ng­ưỡng, h­ướng về, cũng nh­ư noi g­ương đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc Tôn Kính để tu tập. Ng­ười Lễ Bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của Tiền Nhân trên con đư­ờng giác ngộ và giải thoát khổ đau sanh tử. Phận làm cha mẹ cần phải giải thích cho con cháu hiểu rõ ý nghĩa và giá trị Thờ, Cúng và Lễ Bái. Con cháu nhờ đó tiếp nối sự nghiệp Thờ, Cúng và Lễ Bái của Tổ Tiên cho đúng đạo lý.

Truyền Thống Văn Hóa Việt Nam, Vấn đề Thờ, Cúng và Lễ Bái là hình ảnh linh động nhất, cao đẹp nhất, sâu đậm nhất của một Dân Tộc có hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Hình ảnh Thờ, Cúng và Lễ Bái làm sống dậy tinh thần Hiếu Nghĩa và Đạo Đức Nhân Luân của con Lạc cháu Hồng, Việt Nam bất diệt.

CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO

* Khảo Nghiệm Duy Thức Học, Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội xuất bản.

* Câu Xá Luận, quyển 1 và 4.

* Thuận Chánh Lý Luận, quyển 10.

* Thành Duy Thức Luận, quyển 7.

* Bánh Pháp Minh Môn Luận Sớ, quyển Th­ượng.

* Thành Duy Thức Luận Thuật Ký, quyển 7 Mạt.

* Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 3 và quyển 5.

* Đại Nhật Kinh Sớ Diễn áo, quyển 2.

* Phật Học Đại Từ Điển, quyển 4, Trang 3997-3998.

* Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 8.

* Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 27 và quyển 41.

* Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ

* Kinh Di Giáo.

* Kinh Phổ Hiền, Phẩm Hạnh Nguyện.

* Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh, quyển 13.

* Kinh Thập Địa Luận, quyển 3.

* Kinh Phạm Võng, quyển Hạ

* Ma Ha Tăng Kỳ Luật, quyển 25 và quyển 27.

* Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa, quyển 18.

* Tứ Phần Luật, quyển 60.

* Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, quyển 4.

* Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20.

* Đại Đư­ờng Tây Vực Ký, quyển 2.

* Thích Môn Quy Kính Nghi, quyển Hạ.

* Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển 15.

* Đại Bảo Tích Kinh, quyển 43.

Mục Lục

Lời Nhà Xuất Bản

Lời mở đầu

Lời Phát Đoan

  1. VẤN ĐỀ THỜ
  2. Ý nghĩa thờ
  3. Cách thờ
  4. Chỗ thờ
  5. Giá trị nơi thờ
  6. VẤN ĐỀ CÚNG
  7. Ý nghĩa của sự cúng
  8. Sự khác biệt cung dưỡng và cúng dường
  9. Giá trị và quan mềm về sự cúng

D.Vấn đề ăn

  1. Cách ăn của Tổ Tiên, Ông Bà
  2. Cách cúng
  3. Phụ Bản
  4. Nghi cúng Ông Bà
  5. Nghi thỉnh Vong

III VẤN ĐỀ LỄ BÁI

  1. Định nghĩa
  2. Nghi cách và ý nghĩa Lễ Bái
  3. Quan mềm Lễ Bái
  4. Về cách lạy của Thế Gian
  5. Về cách lạy của Thánh Giáo
  6. Lợi ích của sự Lễ Bái
  7. KẾT LUẬN
  8. CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO

Hòa Thượng Thích Thắng Hoan

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng mang tính lịch sử – xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt của hiện tượng này là ở chỗ, nó nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp trong truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc. Song, nó cũng là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc mê tín, dị đoan, vụ lợi. Trong lịch sử và trong cuộc sông hiện tại, nó đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của con người. Các học giả trong nước và ngoài nước đã có nhiều ý kiến xung quanh hiện tượng thờ cúng tố tiên này. Đây là một loại hình tín ngưỡng hay tôn giáo? hay chỉ là một tập tục, thói quen, một hoạt động mang tính văn hoá, đạo đức?… Để có cơ sở khoa học đánh giá hiện tượng này, cần phải làm rõ nguồn gốc và bản chất của nó.

Trước hết, chúng ta hãy làm rõ nội hàm của khái niệm tổ tiên và thờ cúng tổ tiên.
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ, kỵ, ông, bà, cha, mẹ… – những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người đang sống.

Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ có nguồn gốc là tổ tiên tôtem giáo của thị tộc bộ lạc. Tổ tiên tôtem giáo thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự nhiên, có mối quan hệ mật thiết với con người và khi được thần thánh, thiêng liêng hoá thì được coi là tôtem (vật tổ) của thị tộc, bộ lạc. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên là những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự… đầy quyền uy.

Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn. Họ thường là những người giữ địa vị chủ gia đình, gia tộc đã mất, có quyền thừa kế và di chúc tài sản được luật pháp và xã hội thừa nhận.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Nó không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống – gia đình, họ tộc… mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia, dân tộc thường gắn liền với tên tuổi của những người có công tạo dựng, giữ gìn cuộc sống của cộng đồng. Họ là những anh hùng, danh nhân mà khi sống được tôn sùng, kính nể, khi mất được tưởng nhớ, thờ phụng trong các không gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ là những tổ sư tổ nghề, thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá…

Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp của ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và nghi lễ thờ phụng.

Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tình cảm biết ơn, tưởng nhớ, hướng về cội nguồn, quá khứ. Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn, tưởng nhớ tổ tiên, đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên là niềm tin về linh hồn tổ tiên còn sống, có thể che chở, phù hộ độ trì cho con cháu. Biểu tượng về tổ tiên là hình ảnh về những người tài giỏi, có công, có đức. Trên bàn thờ tổ tiên thường có bài vị, tượng, ảnh được bày đặt cầu kỳ, trang trọng.

Cúng là yếu tố mang tính nghi lễ, là sự thực hành một loạt động tác (khấn, vái, quì, lạy ) của người gia trưởng, tộc trưởng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng, dân tộc. Thờ và cúng là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt – đó là sự thờ phụng tổ tiên . Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung, còn hoạt động cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng.Ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội dung cốt lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ phụng tổ tiên thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “nhờ” mà chỉ có “cúng” thì sự thờ phụng tổ tiên không có “hồn thiêng”, không có sức hấp dẫn nội tại dễ thành nhạt nhẽo và do vậy, không thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo và tạo nên sức hấp dẫn. Nó chính là chất kết dính, tạo nên màu sắc thoả mãn niềm tin của chủ thể thờ cúng.

Trong xã hội nguyên thuỷ, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức xã hội nguyên thuỷ, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên.

Về sau, cùng với lực lượng tự nhiên là lực lượng mang tính xã hội, như sự áp bức, bóc lột giai cấp… luôn thống trị lên cuộc sống hàng ngày của con người. Bế tắc trong cuộc sống hiện thực, con người tìm sự giải thoát trong cuộc sống tinh thần. Cùng với các biểu tượng về thần linh, biểu tượng về tôtem đã xuất hiện trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ. Đặc điểm chủ yếu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong thời kỳ này là việc thờ tổ tiên tôtem giáo.

Sang thời kỳ thị tộc phụ hệ, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phản ánh sự thay đổi trong phân công lao động xã hội. Người đàn ông giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế. Họ là những người vừa có quyền lực thế tục, vữa có uy tín, được quyền nắm giữ việc thờ cúng các thần, trong đó có tổ tiên đã chết. Đối tượng thờ cúng thời kỳ này được chuyển từ tổ tiên tôtem sang tổ tiên thật, cùng huyết thống đã chết.

Như vậy, có thể xem nguồn gốc xã hội sâu xa mang tính khách quan của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở tính hạn chế của lực lượng sản xuất và kèm theo đó là sự hạn chế, tù túng trong quan hệ kép giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong xã hội. Còn nguồn gốc trực tiếp, mang tính xã hội của nó là sự phân hoá xã hội mà hệ quả của sự phân hoá ấy là việc đề cao vai trò của người đứng đầu trong gia đình – thị tộc. Những người này, dựa vào uy tín của mình để củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền. Trong xã hội có giai cấp, sự áp bức, bóc lột giai cấp, sự bất công xã hội đã khiến cho con người không có lối thoát hiện thực phải đi tìm sự trợ giúp của tổ tiên cũng là những nguồn gốc xã hội quan trọng làm nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Cùng với đó nhận thức của con người cũng là một nguồn gốc quan trọng trong quá trình hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người nguyên thuỷ tin rằng con người sau khi chết, linh hồn vẫn tiếp tục sống. Ý niệm về linh hồn là một trong những yếu tố cơ bản nằm trong các phức hợp, biểu tượng về tổ tiên và là một đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Một yếu tố tư tưởng khác, có phần xa xưa hơn với ý niệm về linh hồn, có ảnh hưởng tới sự phát triển các biểu tượng về tổ tiên là hình ảnh tổ tiên tôtem giáo, hình ảnh thần che chở cho gia đình, thị tộc.

Nguồn gốc nhận thức luận của tôn giáo, như Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ, “tôn giáo sinh ra trong một thời đại hết sức nguyên thuỷ, từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người về bản chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài, xung quanh họ”(1), cũng đúng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng tôn thờ tổ tiên được xây dựng trên những vật liệu là những quan niệm, nhận thức ấu trĩ , thơ ngây về linh hồn người chết, về tổ tiên tôtem giáo, về các thần che chở cho gia đình, thị tộc. Thêm vào đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được hình thành trên cơ sở tâm lý, tình cảm mang tính tôn giáo của cá nhân, cộng đồng người trong xã hội.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin ấy bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng – ước muốn trường thọ của con người. Chính con người đã thiêng liêng hoá tình cảm thương, thái độ kính trọng người có công tạo dựng cuộc sống. Trong cuộc sống, con người không những chỉ tiếp xúc với cái hiện hữu, mà còn tiếp xúc với cái vô hình, trừu tượng, mông lung, chỉ được con người cảm nhận, linh cảm chứ không thể lý giải được bằng lý trí. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, là sự giải toả nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Bằng nghi lễ thờ cúng tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về cái chết và cuộc sống sau khi chết, giải toả nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó.

Trong chế độ phụ quyền, quyền hành của gia trưởng, tộc trưởng còn làm phát sinh ở con cháu cảm giác sợ hãi, qui thuận. Cảm giác này được nuôi dưỡng, di truyền thông qua các thế hệ và thậm chí được chuyển sang thế giới bên kia với quan niệm rằng, người chết vẫn có thể trừng phạt con cháu. Tổ tiên cũng giống như các vị thần linh khác có thể giáng tai hoạ xuống con cháu, vì thế cần phải kính trọng, thờ cúng thường xuyên thì tổ tiên mới không làm hại, mới che chở, bảo vệ, phù giúp.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được bắt nguồn từ lòng hiếu thảo của con cháu. Quan hệ giữa bố mẹ đang sống với con cái là hiện thân của mối quan hệ giữa tổ tiên với con cháu sau này. Sự kính hiếu cha mẹ được tiếp nối bằng sự tôn thờ, sùng bái tổ tiên. Bổn phận kính trọng, báo hiếu, đền ơn công sinh thành dưỡng… dục của bố mẹ cũng là bổn phận báo hiếu, ơn đền tổ tiên. Thờ phụng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo, sự thành kính biết ơn các bậc đã sinh thành, nuôi nấng và tác thành cho mình. Tuy nhiên, con cháu chỉ được tổ tiên bao dung, che chở khi sống xứng đáng với ước nguyện của tổ tiên. Mặt khác, con cháu chỉ tôn kính, qui thuận và thờ phụng tổ tiên khi tổ tiên xứng đáng là tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Nếu ai, trong quá khứ có hành động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng họ tộc và gia đình, chẳng những không được kính trọng, tôn thờ mà còn bị nguyền rủa, trừng phạt.

Trên đây là những nguồn gốc xã hội, nhận thức và tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Song để làm sáng tỏ vấn đề, cần thiết phải xem xét những đặc trưng chủ yếu nhất, tức là bản chất của nó.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống như các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác là sự phản ánh sai lệch hiện thực, là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ (2). Lực lượng xa lạ bên ngoài, ở đây là tổ tiên trong thế giới vô hình. Tổ tiên đã mất là đối tượng phản ánh nhằm đáp ứng, thoả mãn sự thiếu hụt tinh thần của những người đang sống. Tổ tiên khi còn sống. Tổ tiên kh còn sống thì “khôn”, đến lúc chết thì “thiêng”, vẫn ngự trên bàn thờ, vừa gần gũi vừa xa lạ, linh thiêng. Con cháu thành kính, tôn thờ tổ tiên là tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Ý thức về tổ tiên là ý thức về cội nguồn. Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của thời gian, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt, chết không phải là hết. Các thế hệ tiếp nối nhau, chết chỉ là sự bắt đấu của chu kỳ sinh mới.

Tổ tiên được gắn cho sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá bắt nguồn từ quan niệm về sự bất diệt của linh hồn. Sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá tổ tiên là sự tưởng tượng, song lại có cội nguồn từ cuộc sống hiện thực. Ý thức về tổ tiên hình thành và tồn tại giúp con người vượt qua cái trần tục, đời thường, thúc đẩy sự tìm tòi, vượt qua trạng thái hiện tồn để hướng về phía trước, khắc phục sự hẫng hụt về tinh thần. Xét về mặt đạo đức, ý thức về tổ tiên mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong cộng đồng xã hội.

Ngoài biểu tượng về linh hồn tổ tiên, biểu tượng tổ tiên tôtem, biểu tượng về các thần che chở cũng là nội dung tư tưởng của ý thức về tổ tiên. Ý niệm về tổ tiên tôtem tạo cho người ta hình ảnh mơ hồ, xa lạ, linh thiêng của tổ tiên. Còn ý niệm về thần che chở tạo cho người ta cảm giác yên tâm.

Xét về mặt nhận thức luận, chủ thể nhận thức và phản ánh là người sống, khách thể được nhận thức và phản ánh là tổ tiên đã mất. Xét về mặt xã hội, đó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người gia trưởng, là kết quả tất yếu của quá trình phân hoá xã hội, từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Bản chất xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện rõ nét trong nội dung, đối tượng và hình thức phản ánh, được qui định bởi các nguồn gốc xã hội, nhận thức và tâm lý của nó.

Đặc trưng chỉ nó nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở chỗ, nó là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử – xã hội và văn hoá thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là sự phản ảnh tồn tại xã hội, chịu sự qui định của tồn tại xã hội, có tính độc lập tương đối, được hình thành rất sớm và còn tồn tại lâu dài trong xã hội. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gắn quyện vào nhau, tạo thành nét đặc thù của loại_hình tín ngưỡng này.

Như vậy, có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn hoá, đạo đức trên cơ sở của niềm tin cho rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người gia trưởng và được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng theo quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi con người, của mỗi gia đình và mỗi cộng đồng xã hội.

(l) C. Mác và Ph.ăng ghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.445.
(2) C.Mác và Ph.Ăng ghen. Sđd., t.20, tr.437.

Nguồn:Tạp chí Triết học
Trần Đăng Sinh
Giảng viên triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở VIỆT NAM

I- Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay Đạo Ông bà có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời ở nước ta. Cơ sở hình thành tín ngưỡng này là niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu .Tín ngưỡng này có mặt ở nhiều dân tộc Đông Nam Á nhưng theo quan sát của nhiều nhà dân tộc học thì nó phổ biến và phát triển hơn cả ở người Việt, nó gần như trở thành một thứ tôn giáo, ngay cả những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà.
Cùng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các hình thức nghi lễ thờ cúng và các dạng sinh hoạt tín ngưỡng khác có liên quan cũng được phát triển và góp phần tạo nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian nói chung, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói riêng trên tất cả các mặt biểu hiện của nó không chỉ phác họa nên đời sống tín ngưỡng mà còn bổ sung tư liệu cho việc nhận thức về bản chất và sắc thái đa dạng của đời sống tâm linh người Việt.
Từ những ý nghĩa trên, chúng tôi chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam” với mong muốn góp phần làm sáng tỏ vấn đề liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dòng chảy tín ngưỡng dân gian của Viêt Nam. Đồng thời, bổ sung thêm một số tư liệu bằng tiếng pháp liên quan đến tín ngưỡng độc đáo này.
2. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
– Phương pháp nghiên cứu: Thu thập tài liệu, quan sát thực tế đời sống, dịch từ tiếng việt sang tiếng pháp
– Nguồn tư liệu: Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm, 2005, Nhà xuất bản giáo dục), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam (Nguyễn Minh San, 1998, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc), Đất lề quê thói (Nhất Thanh (Vũ Văn Khiếu),2001, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin), Văn hóa phong tục (Hoàng Quốc Hải, 2005, Nhà xuất bản phụ nữ), Le culte des ancêtres dans la famille vietnamienne (Florence (Nguyễn- Rounaul, 2001, Hommes et Migrations)…
3. Câu hỏi nghiên cứu:
– Bản chất của những mối liên hệ làm nên một trong những hình thức sống động nhất trong đời sống tâm linh người Việt là gì ?
– “Tôn giáo” về những người chết ấy dựa trên nền tảng nào?
– Cách biểu hiện nghi thức và thực hành nó ra sao?
– Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ta có thể nhận ra bài học luân lí và triết học gì?
II- Nội dung tóm tắt các chương chính của nghiên cứu khoa học
Chương I. Giới thiệu chung
Ở chương này chúng tôi giới thiệu về một vài khái niệm liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết là quan niệm của người Việt về linh hồn. trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm « linh hồn » và « linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng.
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất, những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng và có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ người đang sống. Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái niệm tổ tiên không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi truyền thống gia đình, họ tộc mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội.
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tình cảm biết ơn, tưởng nhớ, hướng về cội nguồn, quá khứ. Cúng là yếu tố mang tính nghi lễ, là sự thực hành một loạt động tác (khấn, vái, quì, lạy) của người gia trưởng, tộc trưởng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng, dân tộc. Thờ và cúng là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt – đó là sự thờ phụng tổ tiên .
Chương II. Nguồn gốc của ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết phải đề cập đến chế độ phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng trong họat động kinh tế và sinh họat của gia đình. Con cái mang họ cha và con trai kế tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy..
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam. Đó là:
– Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải do tạo hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã
củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
– Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật tự kỉ cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo giáo góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
– Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt nhưng không vì thế mà có sự sao chép y nguyên. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
Chương III: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên
Không gian thờ cúng tổ tiên bao giờ cũng là nơi sạch sẽ và trang trọng nhất của ngôi nhà. Bàn thờ tổ tiên lúc nào cũng đặt ở nơi cao ráo và phần lớn quay về hướng Nam với hàm ý con cháu tôn vinh bậc hiền tài theo tinh thần “Thánh nhân nam diện thính nhân thiên hạ”.
Theo quan niệm của người xưa, bàn thờ là biểu tượng của bầu trời tinh khiết. Ở hai góc ngoài có hai cây đèn hoặc nến tượng trưng cho mặt trời (phía bên trái bàn thờ) và mặt trăng (bên phải bàn thờ). Bát hương ở giữa biểu hiện cho vì tinh tú. Đèn hương đóng vai trò rất quan trọng vì đó là cầu nối duy nhất giữa con người và thần linh. Con người nhờ hương khói để truyền ước vọng của mình lên các đấng thiêng thiêng ở trên trời.Ngoài bàn thờ thông thường còn có bàn thờ vọng, là một loại bàn thờ mà người sống xa quê ít có điều kiện về nhà con trưởng lập nên.
Nghi lễ thờ cúng từ xưa đến nay đều được thực hiện theo một số nguyên tắc nhất định:
Khi trong gia đình có người qua đời. lễ tang đươc tổ chức rất trịnh trọng theo những nghi lễ như: Mộc dục (tắm rửa cho người chết), lễ Phạn hàm (đặt tiền và gạo vào miệng người chết), lễ Nhập quan, lễ Thiết linh (đặt bàn thờ tang), lễ Phát dẫn (lễ đưa tang), lễ An táng (hạ huyệt), lễ Tế ngu (nghi lễ được thực hiện sau ba ngày chôn cất, con cháu đến mộ để sửa sang mộ phần và sửa soạn cỗ bàn để tiếp đãi họ hàng thân thuộc, khách khứa đến dự). Ngoài ra, còn có lễ Chung thất (49 ngày) (ngày đưa linh hồn người chết lên nương nhờ cửa Phật). Khi người chết đã được 100 ngày là đến tuần tốt khốc, con cháu làm lễ cúng và cỗ bàn mời họ hàng. Sau lễ 100 ngày, con cháu lấy ngày chết làm ngày giỗ.
Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (lễ Đàm tường). Họ tin rằng đấy là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mùng một, ngày rằm và các dịp lễ tết khác trong năm như: Tết Nguyên Đán, tết Thanh minh, tết Thượng nguyên…Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ, gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử… người Việt cũng dâng hương làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ hay tạ ơn.
Đây là một lễ vô cùng quan trọng bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể hiện lòng thành kính với vong linh người đã khuất, không phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nước, quả trứng nén hương cũng giữ được đạo hiếu.
Chương IV: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong đời sống tinh thần người Việt
Thông qua nghi lễ thờ cúng , người Việt gửi gắm tính cảm biết ơn đối với tổ tiên, “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý uống nước nhớ nguồn, thành “đạo hiếu”. Đạo hiếu là cái gốc của mỗi người. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam. Cùng với sự thể hiện đạo hiếu với tổ tiên, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là sợi dây liên kết giữa những con người trong cuộc sống hiện tại. Từ lòng nhân ái, tính cộng đồng được xây dựng, củng cố cũng là những giá trị đạo đức đáng trọng không thể thiếu trong đời sống xã hội của mỗi người.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận được của văn hóa tâm linh trong đời sống cộng đồng ,vẫn còn tồn tại những nghịch lí. Những nghịch lí ấy xuất phát từ chính quan niệm “ trần sao âm vậy” vì thế mà nhiều người đã suy bụng ta ra bụng thần, áp đặt cách ứng xử nhuốm màu tiêu cực vào chốn thiêng liêng. Hậu quả nguy hại nhất là làm gia tăng tình trang mê tín dị đoan, lối suy nghĩ và cách hành xử tiêu cực, chạy theo các giá trị vật chất hiện sinh, cách ứng xử gian dối, phủ nhận khoa học, coi thường lao động, sự trung thực và những giá trị chân chính của cuộc sống.
III- Kết luận
Thờ cúng tổ tiên của người Việt vừa là vô thức, vừa là tiềm thức và ý thức của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Nó không phải là một tín ngưỡng hay một đạo lý bị áp đặt. Nó chính là một nét văn hóa tâm linh vừa mang tính bản địa vừa mang tính nhân loại di truyền từ đời này sang đời khác. Việc thờ cúng tổ tiên có thể coi như một thứ “gen” văn hóa tinh thần của người Việt.

Phạm Minh Trang – 09 F4
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp
GV hướng dẫn: ThS. Ngô Hoàng Vĩnh